
GIÁO DỤC
TUỔI TRẺ PHẬT GIÁO
ÐƯỜNG HƯỚNG GIÁO DỤC
CỦA GIA ÐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM TẠI HOA KỲ
Hoa Ðàm – Bộ mới, Số 1
phát hành ngày 31 tháng 3, 2015
Chủ trương và thực hiện:
Hoa Ðàm Group
Biên tập:
Nguyên Túc | Tâm Thường Định | Quảng Pháp
Mục Lục
LỜI NGỎ | Hoa Ðàm 5
Phần một: GIÁO DỤC TUỔI TRẺ PHẬT GIÁO
Trao cho thời đại một nội dung Phậc chất | Thích Đức Nhuận | 9
Suy nghĩ hướng giáo dục đạo Phật cho tuổi trẻ | Tuệ Sỹ | 29
Ðạo Phật với thanh niên | Tuệ Sỹ | 35
Nền giáo dục vượt qua | Thích Thái Hòa | 47
Con đường giáo dục | Thích Thái Hòa | 51
Phát triển văn hóa, giáo dục Phật giáo trong thời đại ngày nay | Thích Nguyên Siêu | 63
Hoằng pháp đối với tuổi trẻ, một vài suy nghĩ | Giới Hảo | 67
Tuổi Trẻ và Vấn Đề Bộ Phái | Nguyên Giác | 79
Tiếp cận các nguồn nghiên cứu Phật học Anh ngữ | Nguyên Giác | 91
Phần hai: ÐƯỜNG HƯỚNG GIÁO DỤC
của GIA ÐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM TẠI HOA KỲ
Trung Đạo, con đường tu tập và hoằng pháp | Thích Thái Hòa | 119
Vai trò giáo dục và hướng đi của Gia Ðình Phật Tử Việt Nam Tại Hoa Kỳ | Thích Tịnh Từ | 127
Giáo dục tuổi trẻ hiện nay tại hải ngoại | Thích Như Ðiển 145
Tinh thần quán niệm | Thích Từ Lực | 157
Ai là Tâm Minh thế kỷ 21 | Thích Từ Lực | 165
Cư sĩ mọi thời | Vĩnh Hảo | 171
Giáo dục tuổi trẻ bằng Chánh Pháp | Tâm Huy | 183
Gieo hạt giống lành | Nguyên Thọ | 191
Chùm hoa Bát Chánh | Nguyên Phương | 213
Góp bàn về đường hướng giáo dục trong GÐPT | Phúc Trung | 219
Phật giáo với tuổi trẻ | Nguyên Bảo | 231
Ðường đến Phật | Ninh Hạ | 239
Người Huynh Trưởng thời đại | Thị Nghĩa | 251
Nhận xét và giáo dục trong Gia Ðình Phật Tử hiện nay | Nguyên Bảo | 269
Thân giáo là một giải pháp cho Tất cả | Tâm Thường Ðịnh | 281
LỜI CUỐI SÁCH | Hoa Ðàm
___________________________________________
LỜI NGỎ
Có thể hình tượng hóa việc giáo dục như gieo hạt, ươm mầm, tưới tẩm cho cây lá hạnh phúc của đời người riêng/chung được tươi nhuận, vươn lên lớn mạnh, trổ hoa ra trái. Đời người riêng/chung đó chỉ thực sự hạnh phúc khi không còn vướng mắc với khổ đau, thân tâm thực sự thanh thoát, an lành.
Nếu giáo dục là trao truyền và thu nhận sự hiểu biết cần thiết về kiến văn và đạo lý với mục tiêu giúp cá nhân và cộng đồng con người sống yên hòa, hạnh lạc thì Phật giáo hẳn đáp ứng dễ dàng tiêu chí này. Giáo dục đời thường không chỉ đòi hỏi học và biết ròng lý thuyết, mà phải thực hành hay từ hiểu biết thụ nhận mà phát kiến, sáng tạo. Phật giáo cũng thế, thu liễm giáo pháp phải đi đôi với tinh tấn tu dưỡng hành động (thân, khẩu) và tư tưởng (ý), chế ngự tham, sân, si (tam độc), lưu tâm đến trí-hữu-sư lẫn trí-vô-sư.
Nhưng nếu thu gọn trong một số giáo thuyết vạn năng của Phật pháp, xem đó là những giải đáp ưu việt cho giáo dục, e là phiến diện. Những bài tham luận trong tập sách này đã mở rộng vấn đề giáo dục Phật giáo đậm tính nhân văn và đức lý, theo tầm nhìn Khế lý-Khế cơ-Khế thời. Hướng vọng của giáo dục Phật giáo không chỉ là yêu cầu bức thiết cho sự tự hoàn thiện bản thân (tự giác) đến việc truyền dạy (giác tha) trong gia đình, đoàn thể, quốc gia mà còn vươn rộng tới toàn cộng đồng nhân loại (chúng sinh hữu tình) khi tham vọng, khổ đau, điêu linh vẫn còn đầy rẫy. Giáo dục Phật giáo cũng không chỉ nhắm vào hiệu quả hiện tiền, đương thời, hay cục hạn trong một hay vài thế hệ tương lai, mà còn nhắm tới hiệu quả nối dài trong vô hạn kiếp người. Cốt tủy giáo pháp của Như Lai khi nhằm giải trừ mọi lệch lạc, hư hỏng của thân tâm con người, trải qua hơn 2500 năm, đã mang tính phổ biến, đa năng, đa hiệu, thích nghi mọi thời đại, mọi quốc độ, mọi lúc và nơi Phật giáo du nhập. Và, giáo dục Phật giáo đương nhiên cũng đi theo lộ trình linh hoạt, nhu nhuyến, dung hợp, tiếp biến như thế. Độc giả sẽ được chia sẻ nhiều ý kiến về giáo dục Phật giáo cho tuổi trẻ Việt Nam trong hai môi trường quốc nội và hải ngoại, sống trong hoàn cảnh nghịch chiều về kinh tế, chính trị: một bên thì chậm tiến, bị áp đặt mọi mặt, một bên thì tiến bộ, được tự do, khai phóng. Qua những nhận định chia chẻ này, độc giả sẽ thấy nỗi mong ước, nỗ lực tìm ra khả tính tổng hòa, đồng bộ trong công cuộc giáo dưỡng người trẻ Việt Nam trong ngoài nước dưới ánh sáng Từ Bi và Trí Tuệ.
HOA ĐÀM
___________________________________________
Phần một:
GIÁO DỤC TUỔI TRẺ PHẬT GIÁO
___________________________________________
Trao cho thời đại
một nội dung Phật chất
Thích Ðức Nhuận (1924-2001)
Sống giữa giai đoạn xã hội chuyển tiếp con người hôm nay đã và đang nếm trải mọi thử thách ác liệt do các ý thức hệ bạo hành gây ra; càng cố vùng vẫy, con người càng cảm thấy bất lực, sa lầy thêm sâu trong tình trạng mất hướng, mất tự tín. Những vết tàn phế của xã hội đang hằn lên nét mặt lo âu của mọi người; đang tuôn chảy vào tâm tư thế hệ hai mươi những vết đen dài băng hoại, đã hợp thành tiếng kêu cứu, trông chờ nơi những người trí thức sớm đưa thế cuộc ra khỏi ngã tối lịch sử.
Ðể đưa lại cho đời ánh sáng, để gây tin tưởng cho mọi người cùng chung xây xã hội, điều cần là: ổn định nhận thức con người đã bị các nhà sử quan cận thị làm lạc hướng; khiến con người hăng hái tàn sát nhau, vì luôn luôn nghĩ rằng mình đi đúng đường lịch sử; ý thức hệ sẽ dẫn tới hạnh phúc, tới chân lý cuộc đời. Trạng huống đau thương này còn được lái vào việc xây cao thêm địa vị cho một số lãnh đạo nhà nước, tiêu xài máu người trong những vụ tranh giành ảnh hưởng, mưu lợi cá nhân, đoàn thể, giai cấp, chủng tộc nữa. Ngày nào nhân loại chưa giác ngộ trút bỏ được tham vọng mê lầm thì ngày đó thân phận con người còn bi đát, xã hội còn bất công, lịch sử còn lạc hướng.
Chưa lúc nào bằng lúc này, danh từ giác ngộ của đạo Phật được con người ưa dùng. Chưa lúc nào bằng lúc này, ý nghĩa sự giác ngộ cần được làm sáng tỏ. Vì con người đã lạm dụng từ “giác ngộ” một cách quá thường, quá bừa bãi:
– Giác ngộ quyền lợi cá nhân
– Giác ngộ quyền lợi giai cấp
– Giác ngộ quyền lợi dân tộc
Và còn nhiều thứ giác ngộ … khác nữa; mà chẳng ai thực sự giác ngộ thân phận, mối tương quan giữa mình với đời và nhiệm vụ của mình đối với mình, đối với xã hội, đối với vạn hữu cả. Có chăng chỉ là sự giác ngộ trong lời nói, trên sách báo. Còn thực chứng giác ngộ thì quả là chưa. Vẫn cứ chấp chặt lấy quyền lợi, địa vị, danh vọng thiển cận của mình.
Muốn giải thoát cho đời khỏi khổ ải lầm than, trước hết hãy tự giải thoát cho mình khỏi vòng thành kiến, lợi danh đã. Mà muốn thực sự giải thoát cho mình trọn vẹn thì không thể không nghĩ tới và thực thi việc giải thoát cho đời; vì mình và đời gắn liền với nhau như hình với bóng. Không phóng tâm vươn tới giải thoát đời, thì công việc giải thoát mình chỉ mới tiến hành được một nửa, nếu không muốn nói là chưa được chi cả. Chỉ biết mình tức là còn chấp chặt trong lớp vỏ cứng cá nhân, vô trách nhiệm, bỏ lỏng, buông trôi, trước sự bạo loạn của đời. Thái độ đó không phải là thái độ của người giác ngộ. Người giác ngộ chân chính là người thấu hiểu tất cả, làm tất cả, với một từ tâm, minh trí; không mưu lợi danh, không cầu thỏa chí, mà chỉ làm với một tâm nguyện, tận dụng khả năng góp phần thăng hóa con người, thắm tô cuộc đời, để tất cả chúng sinh đủ điều kiện tự chứng lấy ý nghĩa và cảnh tính “giải thoát sinh không” của mình.
Cuộc đời của Ðức Như Lai đã thực chứng điều ấy. Là Phật tử, những người may mắn được thừa kế đức sáng, trí tuệ của đức Phật, chúng ta không thể làm ngơ trước những khổ đau của xã hội. Chúng ta cần Trao cho thời đại một nội dung Phật chất, một nội dung Từ bi, trí tuệ, bình đẳng, vị tha để con người nương vào đó ổn định tâm tư, ổn định cuộc sống và cùng xây dựng một xã hội vui ấm.
Lịch sử nhân loại đang tiến vào thế tổng hợp lớn. Mọi vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa đều đang vươn khỏi phạm vi quốc gia, chủng tộc tới lĩnh vực quốc tế nhân loại. Con người ngày nay cần phải có một nhận thức tổng hợp hòng gột bỏ mọi thành kiến tôn giáo, chủng tộc, giai cấp để xây dựng một xã hội trong đó: tự do vẫn tồn tại trong công lý; công lý không nhằm tiêu diệt tự do cá nhân, mà chính là bảo vệ mọi tự do của con người, tự do tư tưởng, tự do lựa chọn, tự do xây dựng cuộc sống, và tự do sáng tạo. Nhưng, như vậy, không có nghĩa là tự do quá trớn, tự do vô trách nhiệm, mà chính là phải ý thức được quyền tự do đó, phải có trách nhiệm về mọi hoạt động của mình. Có thế mới duy trì nổi công lý, duy trì được sự quân bình xã hội. Vì nếu xã hội loạn thì lập tức tự do bị tước đoạt; hoặc tự do bị tước đoạt thì lập tức xã hội cũng loạn:
“Cái này hiện hữu thì cái kia hiện hữu;
Cái này không hiện hữu thì cái kia không hiện hữu.
Cái này sinh thành thì cái kia sinh thành;
Cái này hủy diệt thì cái kia hủy diệt”[1]
Kinh A Hàm
Ðạo phật đã đoan chắc thế, thực tế đã quyết nhận thế, lẽ biến dịch sinh hóa của vạn vật là thế. Người Phật tử không thể quên được tiêu chuẩn đó của đạo Phật. Chúng ta cần thực thi nguyên tắc này trong cuộc sống, để cùng giải quyết những bế tắc hiện nay, để xây dựng một thế giới mà trong đó, tinh thần tư hữu, tổ chức gia đình vẫn tồn tại hòa hợp trong tổ chức quốc gia, vẫn tồn tại song hành trong tổ chức quốc tế và tinh thần nhân loại, để chấm dứt chiến tranh, điều hòa mức sống cho trên khắp mặt đất, điều hòa giai cấp trong xã hội, không còn thù hận đấu tranh. Một khi thù hận tan dần, lòng tham nhẹ bớt, thì mục tiêu giải thoát đã sáng tỏ trước bước đi của con người; và chiều hướng thượng của tôn giáo chân chính hẳn nhiên phải được con người thực hiện, để giải quyết sự vươn tới của tâm linh siêu thoát.
Với một tình thương vô biên, tình người thắm thiết, với một căn bản tự do tư tưởng, với một phương pháp tự tu, tự giác, tự chứng, đề cao năng lực và ý chí của con người. Với một nhận thức tổng hợp rộng lớn; một khả năng dung hóa tế nhị, một thái độ dung dị hiếu hòa, đạo Phật chắc chắn đủ điều kiện Trao cho thời đại một nội dung cuộc sống tràn đầy hạnh phúc. Nhưng ai là người trao nội dung đó vào đời? Hẳn nhiên là Phật tử. Ðạo Phật còn nở hoa kết trái hay không, không chỉ ở mấy tạng kinh điển mà chính ở những người hoằng pháp hôm nay có đủ đức, trí, tài, năng; có biết thích ứng với hoàn cảnh xã hội, để đưa đạo Phật vào thời đại, làm cho đạo Phật sống mạnh, sáng, đẹp, trên mọi nơi, trong mọi lúc, thích hợp với mọi người ở mọi trình độ trí thức, mọi giai cấp. Ðạo Phật còn trường tồn hay không là nhờ ở đó. Ðạo Phật có đáp ứng được đòi hỏi đương thời không, nhờ ở đó.
Chúng ta hẳn đã có lần nghe thấy từ cửa miệng những người còn mang nặng thành kiến hệ phái, hoặc vì chưa hiểu thấu đạo Phật, cho đạo Phật là một tôn giáo không tình cảm, vô thần, yếm thế xa lìa cuộc đời, phản bội “nhân bản” làm cản đà tiến hóa của xã hội. Tất nhiên, họ có quyền tự do của họ, họ được hoài nghi, phê bình và lựa chọn. Vì, đạo Phật không phải là một tín lý. Ðạo Phật không võ đoán. Ðạo Phật không buộc ai phải tin theo rập khuôn như mình. Ðạo Phật chỉ là một lối hướng dẫn, hòng dắt con người từ trạng thái tham lam mê muội sang trạng thái trong trinh siêu thoát. Còn thực chứng được hay không là do nơi những con người tiếp nhận đạo Phật có gắng công thăng hóa nghiệp lực của mình hay không. Ở đây, chúng ta không làm công việc thanh minh cho đạo Phật, vì sự tồn tại trên hai nghìn năm trăm năm nay, và đạo Phật đã dung hợp được với dân tộc tính các nước Á Ðông, đang rọi ánh sáng chân lý vào nếp sống cơ khí Tây phương, thừa đủ để nói rằng: Ðạo Phật không nông cạn như sự nông cạn của những người đứng ngoài, ngó phớt qua vào cái vỏ của đạo Phật, rồi chê bai, ngờ vực… (Tuy chúng ta không làm công việc thanh minh.) Nhưng chúng ta có bổn phận nói tiếng nói chân chính của người Phật tử, làm sáng ý sáng của đạo Phật, hòng bớt đi cho con người phần nào ngộ nhận; hòng khai quang cho nhãn thức của con người không những về đạo Phật, mà còn về mọi vấn đề khác nữa.
Nếu hiểu “tình cảm” theo nghĩa cảm xúc đam mê vật dục thì đạo Phật không chủ trương duy trì thật, tuy không duy trì nhưng đạo Phật không chối rằng: ở thế giới chúng ta, một thế giới trong đó còn đầy rẫy dục vọng mê cuồng, còn những ham muốn thể chất. Tình cảm của con người thường nhuốm thêm sắc dục; tình cảm không thuần tuý biểu lộ tự tâm linh trong trinh, mà tình cảm còn pha lẫn tính chất sinh lý và bối cảnh xã hội nữa. Do đó, Ðức Thế Tôn đã mệnh danh cho cảnh giới chúng ta là “Dục giới” (Kàmadhàtuh) một thế giới mà sự sinh, trụ, dị, diệt còn tùy thuộc hoàn toàn vào vật dục, đam mê thể chất. Cao hơn cảnh giới chúng ta là cảnh “Sắc giới” (Rùpadhàtuh), thế giới của thần tiên, sinh, trụ, dị, diệt không bằng vật dục mà bằng sự rung ứng sắc tính. Cao hơn hai cảnh giới Dục, Sắc là cảnh “Vô sắc giới” (Árùpyadhàtuh), ở đây đời sống không bằng vật dục hay sắc tính mà bằng thức quan tương ứng, tương giao; nhưng vẫn còn trong vòng sinh tử phiền não. Vượt khỏi ba cảnh giới này mới tới được trạng thái “sinh không siêu thoát”, trạng thái của các bậc đại giác, một cảnh trong trinh toàn triệt, không vương vòng sinh tử luân hồi.
Ðức Phật cùng sống trong cảnh dục giới như ta, nhưng Ngài đã tự chiến đấu với mình để gạn lọc tình cảm vật dục đam mê, để phát khởi tình cảm tâm linh trong sạch, thể hiện qua đức từ bi, đại trí, hỉ xả. Tình cảm của Ngài không chịu buộc dưới sóng tóc người đàn bà, không chỉ yêu riêng mình, và những gì thuộc về mình, không chỉ biết tới cha mẹ, vợ con, quyền quý. Tình cảm của Ngài đã trào ra rung ứng với tất cả chúng sinh khổ đau. Tình cảm ấy đã phát xuất từ tâm thể từ bi. Nếu đạo Phật không có tình cảm, thì đức Thích Ca đã chẳng bao giờ xuất gia, đã chẳng bao giờ quan tâm băn khoăn trước cảnh sinh tử, niềm thống thiết của thế nhân, trước cảnh tranh giành giết chóc giữa chúng sinh tham sống mà chẳng hay biết được rằng mình đang chết, và tất nhiên không có cảnh bồng con cừu non trên đường cát bụi… Tình cảm của siêu nhân là ở đó. Tình cảm của đạo Phật là ở đó; mà chỉ ở đó mới có được ý nghĩa chân thực của tình cảm, một thứ tình cảm tâm linh trong sạch.
Bảo rằng đạo Phật “vô thần” thì quả là vội vàng, quả là chủ quan, không hiểu gì về đạo Phật cả. Nhưng, nếu tìm ở đạo Phật một vị thần có bản tính biết yêu ghét, có uy quyền, tức là được nhân-cách-hóa theo óc tưởng tượng của con người thì nhất định không có ở đạo Phật. Nếu hiểu thần theo nghĩa tâm-thân-thường-hằng–trong–trinh-bản-thể-của-thực-hữu, một chân lý cao tột mà tâm thức con người luôn luôn vươn tới, để đạt được trạng thái trong trinh ấy, thì hẳn nhiên là có. Tâm thần là bản thể của thực hữu, nên có trong mọi loài, mọi vật, nhưng vì vọng niệm mê lầm, như những lớp sa mù che phủ, khiến tri thức con người không thấy được. Con người cần gạn lọc tình cảm trinh khiết, khai quang trí tuệ, đẩy lui tham vọng u muội, mới mong làm sáng được tâm thần tự tại, hòa được với tâm thần đại thể. Như thế đạo Phật không phải là Vô mà là Hữu thần. Thần không ở đâu xa, thần không ban phúc giáng họa mà thần ở trong mỗi người, mỗi vật, chỉ cần làm sáng tâm thần là đạt được chân lý cao nhất của cuộc đời. Ðạo Phật đã mệnh danh cho tâm thần nhiều tên gọi khác nhau như: Phật tính, Chân như, Tính cảnh, Niết Bàn… đều biểu hiện ý niệm trong trinh thường hằng của tâm thể, tất cả đều thu vào một chữ “Tâm” mà tâm thì ở mọi loài, mọi vật đều có thể tự tu, tự luyện tự giác, để tự chứng lấy cảnh giới trong sáng của tâm -thể.
Bởi quan niệm Tâm là bản thể nội tại nơi mỗi người, mỗi vật, nên chẳng những đạo Phật không làm hèn con người mà chính lại làm cho giá trị, địa vị và khả năng con người thêm cao, thêm mạnh. Tuy đạo Phật dùng chung từ “chúng sinh” để chỉ những chủng loại hữu tình, nhưng vẫn có điểm khác nhau, là nơi nghiệp lực của mỗi vật, mỗi loài. Loài người ở vào cấp bậc cao nhất trong chúng sinh. Loài người là chặng cuối cùng của dục giới, có khả năng chứng ngộ để thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Nếu dùng theo từ ngữ đương thời thì đạo Phật đã nói lên đầy đủ và trọn vẹn ý nghĩa Nhân bản nhất.
Ðạo Phật đã mạnh bạo và thẳng thắn phóng trí tuệ vào thực tế đau khổ cuộc đời, không trốn tránh sự thật ê chề của kiếp người, không ỷ lại, van xin, trông đợi ở sự bao bọc trợ giúp của bất cứ một ngoại lực nào, mà tự tìm chính nơi mình để tự giải thoát mình và giải phóng đời. Con người chỉ giải thoát được thân phận khi nào tự giác chứng thôi. Nếu tự mình không cứu mình thì không ai cứu mình nổi, mình phải hoàn tất trách nhiệm và công trình tu dưỡng của mình, không ai gánh đỡ cho mình cả. Có chăng, người khác chỉ tiếp tay cho mình, cùng lắm là hướng dẫn cho mình trong một phạm vi nào đó. Còn quyết định tối hậu vẫn do nơi mình. Ðó là điều tâm nguyện của người Phật tử đi theo hướng Phật.
Ðã đề cao đức Tự chủ, tự do và tự tạo, thì nhất định đạo Phật không bao giờ yếm thế, không trốn tránh cuộc đời và trách nhiệm đối với con người. Ðạo Phật luôn luôn đáp ứng với nhu cầu trí thức và nghiệp lực của mỗi người, mỗi loài. Ở mỗi người, mỗi loài, đạo Phật đều có phương pháp hướng dẫn riêng để tự thân mỗi người, mỗi loài thăng hóa thân phận mình. Sở dĩ có sự ngộ nhận trên là do nơi đức từ bi, thái độ bao dung, khoan hòa của người Phật tử chân chính điển hình, luôn luôn chịu đựng phần thiệt, vui vẻ tha thứ nhiều hơn là cạnh tranh bồng bột. Như vậy là can đảm và khó khăn lắm mới giữ nổi thái độ dung dị trước những chướng tai gai mắt đó.
Vì, người Phật tử dù sao cũng chỉ là một người vẫn còn nặng nhiều với cảnh tính dục giới, nhưng khác hơn người thường là biết làm chủ mình, làm chủ hành động của mình, không để cho những hành động đó thành xuẩn động. Tất cả Phật tử hiểu đạo pháp đều hiểu rằng: cạnh tranh, tham lam, chẳng những không đẹp đẽ gì mà chỉ làm tăng thêm đau khổ cho mình, cho đời thôi. Nên không lăn vào vòng lợi danh, nhưng với nghĩa vụ làm người, bổn phận đối với xã hội, Phật tử dù chịu xả thân cũng không than tiếc. Nếu không có sự hiểu biết đó, đạo Phật đã chẳng thể tồn tại trên hai thiên niên kỷ và đạo Phật cũng chẳng đặt vấn đề hoằng-dương chính – pháp làm chi nữa.
Nếu cho rằng đạo Phật làm cản đà “tiến hóa” của nhân loại thì hãy xét lại đã. Những cuộc cách mạng xã hội hiện nay đã đến sau các phong trào giải phóng thân phận con người khỏi phong tỏa thần quyền với mục đích tìm lấy sự Tự chủ cho con người, Tự do cho tư tưởng và Tự tạo lấy cuộc sống văn minh, chính đã được đạo Phật thuyết minh ngay từ lúc đức Phật thành đạo. Như vậy là đi trước đà tiến hóa trên hai nghìn năm trăm năm chứ không phải là đi sau, hay cản bước lịch sử. Với một ý chí tự tạo, chưa hề bao giờ đạo Phật kìm hãm sự tiến bộ của kỹ thuật khoa học mà chỉ phát tâm đem vào cho xã hội, cho những tiến bộ vật chất ấy một nội dung Phật-chất, để kỹ thuật khỏi quay lại tàn sát con người, phá tán xã hội.
*
Lúc này hơn lúc nào hết, xã hội đang đòi hỏi một hướng tiến: Nghệ thuật, học thuật, kỹ thuật đang đòi hỏi một nội dung thương vui, minh mẫn và thực tế để cung ứng cho con người thời đại, đạo Phật có đủ mọi yếu tố đó.
Thế nhưng từ trước đến nay con người thường chỉ tìm nơi đạo Phật một tôn giáo dưới hình thức cổ kính, thâm uyên, chìm mình trong màu áo tiếng chuông, trong việc cúng Phật cầu siêu. Tin Phật như tin trời, thờ Chúa. Linh thiêng hóa đức Phật như một thượng đế toàn năng, có quyền ban phát ơn lành. Sự lầm lạc này không những hại cho công cuộc tu chứng của mình, mà chẳng làm vẻ vang gì cho đạo Phật cả; trái lại, còn thêm nhiều những tấm màn che khuất mất một nội dung đạo Phật sáng, đẹp, thực tiễn, khiến cho những người chưa hiểu, ngộ nhận nhiều điều đáng tiếc về đạo Phật. Nếu ta không cất bỏ được tấm màn hình thức dày đặc đang bao trùm đạo Phật thì tự ta, tự nơi ngộ tín của ta, ta đã thoái hóa Phật giáo, đạo Phật đáng lẽ hướng dẫn ta trên đường giải thoát, trong thực tế xây dựng cuộc sống no lành, lại hóa ta một thứ cùm xích làm chậm sự chứng ngộ của ta, của đời.
Ở một thạch động thanh tịnh thâm u, nơi tu luyện và đào tạo tăng tài của một vị Thiền sư chứng ngộ, ngài đã hướng dẫn cho rất nhiều tăng sĩ chứng đạo. Nhưng trong số đó có một đệ tử ngoan ngoãn thuần thành, hết lòng tin Phật, yêu thầy, thương bạn. Không bao giờ phạm một lỗi nhỏ, không bao giờ làm trái ý thầy. Thế mà hết mùa tuyết này tan tới mùa băng kia đóng, hết lớp bạn này tới lớp bạn khác ngộ đạo, xuống núi hoằng dương, người đệ tử này vẫn không chứng nổi phép màu.
Vị Thiền sư sau nhiều năm tìm hiểu, ngài đã thấy được căn nguyên của sự chậm ngộ đạo đó.
Mùa tuyết năm nay đã về, đem theo một trận bão lớn. Thạch động toát ra một sức lạnh ghê người. Ngài hiểu rằng đã đến lúc phải ra tay để giúp sức cho người đệ tử yêu chứng ngộ. Sau khi thăm khắp nơi trong thạch động, ngài về ngồi trên bồ đoàn, cạnh bồ đoàn là một lò sưởi sắp tàn. Ngài gọi người đệ tử đến và dạy:
– Con hãy thêm củi vào lò sưởi cho ấm.
Người học trò vâng lệnh ra đi, nhưng tuyết xuống mấy ngày liền, củi dự trữ đã hết, mà nhìn ra trời thì tuyết phủ trắng xóa không thể tìm được đường xuống núi. Sau nhiều cố gắng vô ích, người học trò buồn rầu trở vào lạy thầy:
– Bạch Thầy, củi trong động đã hết, mà ngoài trời bão tuyết quá lớn. Con xin về đây chịu lỗi với Thầy.
Vị thiền sư khoan dung dạy người đồ đệ rằng:
– Con hãy cố tìm xem trong động, có thứ gì bằng gỗ thì đem ra cho thầy. Người đệ tử ngoan ngoãn trở vào trong, lục lọi khắp nơi. Nhưng tất cả mọi vật dụng đều toàn bằng đá, không có thứ nào bằng gỗ cả. Ðành trở ra thưa lại với thầy:
– Thưa Thầy trong động không có thứ chi bằng gỗ cả.
Vị Thiền sư nhân từ dạy thêm:
– Con cố tìm lại xem, thầy chắc thế nào trong động cũng có vật bằng gỗ đấy. Lần này người đệ tử quá sức lo sợ, tìm kiếm khắp nơi nhưng vô hiệu, vào cả trong điện Phật, cũng không có chi bằng gỗ cả! Người đệ tử quỳ trước Phật điện cầu xin Ðức Thế tôn khai sáng cho mình. Rồi lại tiếp tục soát không trừ chỗ nào; tính nhẩm lại tất cả thì chỉ trừ pho tượng Phật bằng gỗ, ngoài ra toàn bằng sắt và đá cả. Thất vọng hoàn toàn. Người đệ tử run sợ ra thưa lại với Thầy:
– Lạy thầy, trong động, ngoài pho tượng Ðức Thế Tôn, không còn thứ gì bằng gỗ cả.
Vị Thiền sư mất hẳn vẻ trầm tĩnh thường nhật, ông lớn tiếng:
– Ta đã bảo lấy bất cứ vật gì bằng gỗ ra đây, ngươi còn hỏi chi nữa, đi ngay. Người đệ tử run sợ đi vào trong điện. Ðầu dao động lên biết bao ý nghĩ, bao câu hỏi, nhưng đều không có câu trả lời. Sau khi lạy Ðức Thế Tôn, người đệ tử ôm pho tượng xuống đưa ra trước mặt thầy.
Vẻ bình tĩnh nhân từ đã trở lại trên mặt và tia nhìn của vị Thiền sư, ngài khoan thai cầm cây búa bên cạnh lò sưởi, giơ lên bổ thẳng xuống pho tượng thếp vàng long lanh. Pho tượng vỡ ra làm đôi, rồi làm nhiều mảnh. Như tâm tư nát vụn của người đệ tử. Toàn thân người đệ tử run lên, nước mắt tràn trề, trong lúc đó vị Thiền sư chậm rãi cầm từng miếng cốt tượng quăng vào lửa, ngọn lửa bừng sáng, tỏa khắp thạch động mờ mờ tối đục. Tâm thức người đệ tử cũng bừng sáng và từ sát-na đó chứng ngộ đạo pháp của Ðức Thế Tôn.
Ðã tới lúc chúng ta cần vén màn hình thức để tìm vào nội dung chân lý của đạo Phật, hòng Trao cho thời đại trí thức hôm nay một đạo Phật linh động, thực tế, thích ứng với nhu cầu tinh thần của nhân loại, để mọi người tìm nơi đạo Phật một nền văn hóa rực rỡ, hợp với lịch sử tiến bộ xã hội, một hướng thoát cho tâm linh con người.
Ðạo Phật là kết tinh của các hệ phái tư tưởng thâm sâu Ấn độ cổ xưa. Ðạo Phật ra đời để tổng hợp mọi khuynh hướng thần học, đạo học, triết học của văn minh Vệ đà. Ðạo Phật là tiếng nói trọn vẹn, là một hệ thống tư tưởng vững mạnh và cao rộng nhất trong các hệ thống tư tưởng cổ kim đông tây. Tìm trong đạo Phật ta thấy mọi vấn đề từ đại thể tới chi tiết của sự việc đã và đang biến diễn trong vũ trụ đều được đặt ra và đều có phương pháp giải quyết. Nhưng, vì từ ngữ, vì hình thức của người xưa khác với ngày nay, nên ta khó lĩnh hội mau chóng, thấu đáo được đạo Phật. Bổn phận của người hoằng pháp hôm nay, là làm điểm sáng của nội dung Phật chất, đem vào những hình thức kỹ thuật, nghệ thuật, học thuật hiện đại một tinh thần sáng động toàn diện của đạo Phật.
Một đạo Phật tổng hợp giữa những anh hoa của cuộc đời, giữa những phát kiến truyền tiếp của một dân tộc sống giữa núi rừng trùng điệp; tư tưởng luôn luôn vươn lên rọi vào những bí ẩn hầu như ảo diễn của vũ trụ vô biên; vì họ luôn luôn cảm thấy mình như bị giam cầm trong một khung cảnh tối tăm nếu từ buổi bình minh của tư tưởng con người đã nhận rằng mình nằm trong trò ảo hóa của Brahma, một vị thượng đế, để thành hình một tôn giáo Brahman, với một quan niệm luân hồi miên tục truyền kiếp và sự phân hóa xã hội tới cùng cực đã sản sinh ra không biết bao nhiêu giai cấp. Triết phái Upanishad xuất hiện, tuy chưa hẳn là chối bỏ hết quyền lực của Brahma nhưng đã tỏ dấu hoài nghi tột độ về những trò ảo diễn phi lý vô ích của vũ trụ. Từ tư tưởng hoài nghi này đã mở lối cho những triết phái khác ra đời. Phái Vedanta đã đưa gần Brahma lại với con người, đưa ngay vào trong con người, để chủ trương tìm về nguồn bình đẳng của vũ trụ. Quá khích hợp, phái Vaisesika hoàn toàn đứng trên quan điểm cực vi duy vật để thành lập hệ thống triết học của mình. Ði tới trạng thái ôn hòa, triết học Samkhya ra đời, chủ trương vũ trụ có thần-ngã và tự- tính; mong cầu của thần ngã thông với tự tính thành ra những hiện tượng ảo hóa. Nếu dẹp bỏ mong cầu thì ảo hóa sẽ tan, chỉ còn tự tính tồn tại trong thần ngã mà thôi. Sau trên hai ngàn năm trăm năm, Ðức Phật ra đời đã dung hóa tất cả mọi khuynh hướng tư tưởng cổ xưa để xây dựng thành một hệ thống đạo Phật hết sức rộng lớn căn cứ trên đức Từ bi, khả năng Giác ngộ của tâm thức, trên tinh thần Tự chủ, Tự do, Tự tạo, đức Phật trao cho đời một nội dung cuộc sống toàn diện cả về tâm linh, luận chứng lẫn phương pháp giác ngộ.
Ngài đã nhìn thẳng vào sự vật, vào cuộc đời mà dạy rằng: “Vạn hữu là thế đó”, chân lý không ở đâu xa mà ở ngay trong vạn pháp. Ngài đã trao cho nhân loại một nhận thức quan về vạn pháp:
– Các hành vô thường
– Các pháp vô ngã
– Bản thể chân như
Ðể con người dùng làm chìa khóa tự mở lấy kho tàng vô biên của trí tuệ, khám phá những bí mật của vũ trụ, đau khổ của cuộc đời. Rồi nương vào đó con người sẽ cởi lần chấp mê u tối, trở lại với bản thể trong trinh của mình.
Vũ trụ kết tụ bởi những hệ thống nhân duyên, con người muốn tham hóa, thấu triệt vũ trụ thì cần nương vào thuyết nhân-duyên-quả- sinh để mà tìm hiểu, để sống hợp với lẽ tiến hoá của vũ trụ. Rồi dựa vào nguyên tắc đó, con người tự thăng hóa nghiệp lực của mình, bằng cách gây nhiều nhân tốt.
Thân phận con người chìm đắm trong cảnh khổ đau, sinh tử luân hồi. Sự khổ đau vốn do dục vọng đam mê nơi mỗi người phát sinh, rồi tăng trưởng thêm mãi. Chẳng những con người không hạn chế lòng tham mà mỗi ngày lại huân tập thêm giữ làm tư kiến, khiến cho khổ đau chồng chất đầy rẫy lên thân phận con người. Ðể chặn đứng khổ đau, con người cần tận diệt dục vọng, khai quang trí tuệ, để thăng hóa nghiệp lực trên con đường giải thoát.
Ðược vậy con người cần thực thi Tám Con Ðường Chính (Aryastaniga Màrganmàni)[2] của Ðạo Giải Thoát bằng phương pháp Tự tu, Tự giác, Tự chứng để đạt tới cảnh “sinh không viên mãn”.
Ðạo Phật đã lấy khởi điểm từ tâm linh, qua thực tế, để hướng tâm linh lên đường giải thoát, nhằm cất đi những gánh nặng khổ đau của con người. Nhưng đạo Phật vẫn chưa nhận đấy là chân lý tuyệt đối, mà đấy chỉ là phương tiện giúp con người tự chứng lấy chân lý thôi. Tức là đạo Phật đã đề cao khả năng, địa vị con người và sự tự do tuyệt đối về tư tưởng. Nhờ vậy đã mở lối cho người hậu thế được góp sức xây dựng đạo Phật mỗi ngày một giàu đẹp thêm hơn. Cũng chính vì tôn trọng tự do con người nên khi truyền đạo đã không gặp một cuộc xung đột nào và được mọi người tiếp nhận như chính tiếp nhận sự phát minh của trí thức mình vậy.
*
Trên hai thiên niên kỷ tồn tại hợp nhất với nếp sống con người hiếu hòa đông phương, Ðạo Phật mỗi ngày một thêm phong phú, kho tàng văn hóa mỗi ngày một thêm tươi đẹp.
Về nghệ thuật:
phải nói rằng đạo Phật ngay khi phát từ kim ngôn đức Thế Tôn đã được lồng dưới hình thức nghệ thuật rồi. Những lời Ngài giảng dạy môn đệ đều tiềm ẩn bên trong những câu chuyện sống động hợp với trình độ và khả năng thưởng thức của mọi người. Những câu chuyện đó được các đệ tử ghi lại qua kinh “Bách Dụ”. Xét về nội dung của các câu chuyện thì mỗi chuyện đều mang một tính chất truyền phổ tư tưởng của đạo Giải thoát, hoặc miêu tả những khổ đau của con người và nguyên nhân phát sinh khổ đau, đồng thời có một phương pháp giải quyết tùy theo hoàn cảnh, trường hợp và nghiệp lực của mỗi nhân vật được Ngài dựng lên trong câu chuyện. Nhờ vậy đệ tử mau hiểu và dễ sống theo những nhân vật trong truyện. Cách sống khoan hòa và trang nghiêm của Ðức Phật đã thành hình ngay một cung thức lễ nghi cho đạo Phật. Giọng giảng đều đều và có mãnh lực thu hút tư tưởng của con người đã mở lối cho những vần điệu âm thanh của câu kinh, bài kệ, tiếng chuông, nhịp mõ sau này. Văn, Lễ, Thi, Nhạc của đạo Phật mở đầu ngay từ ngày đức Phật chưa nhập diệt. Hình ảnh của Ngài đã được ghi lại qua nét Họa, Khắc và được Phật tử thành lập Phật-tự để kính, thờ. Họa, Khắc và Kiến trúc của Phật giáo ra đời. Rồi sau đấy sự tích đức Phật, những câu chuyện của Ngài đã được dựng thành Kịch, quay thành phim để phổ biến trong quần chúng. Như vậy mọi ngành của nghệ thuật như Văn, Thơ, Lễ, Nhạc, Họa, Khắc, Kiến trúc, Kịch, Ảnh đã nảy nở toàn vẹn trong một truyền thống Từ-bi, Trí-tuệ nhưng không khép kín mà luôn luôn mang những hình thức, sắc thái của mỗi dân tộc đã được đạo Phật truyền đến. Nhờ có nội dung chuyên nhất đó, nên càng nhiều sắc thái, nền nghệ thuật đạo Phật càng thêm sáng, đẹp, giàu có, và nội dung đạo Phật càng thấm sâu vào tâm thức con người, càng thăng hóa thêm đẹp các nền văn hóa dân tộc của mỗi nước đã tiếp nhận đạo Phật.
Về học thuật:
Với một nhận thức tổng hợp rộng lớn, với một căn bản tự do tư tưởng, đạo Phật đã phát triển và được sự đóng góp của người trí thức cổ kim để thành lập một nền văn học vĩ đại. Phải nói rằng đó là rừng kinh biển chữ. Kinh điển Phật giáo chia làm ba loại chính là: Kinh, Luật, Luận.
Kinh tạng (Sùtrạm): gồm tất cả Giáo, Lý, Hành, Quả do Ðức Thế Tôn nói ra được các đệ tử kết tập lại trong năm đại bộ: Hoa Nghiêm, Phương đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa, Niết Bàn.
Luật tạng (Vinayah): tập hợp tất cả giới luật của đạo Phật trong sự hướng dẫn tu trì các bậc xuất gia cũng như tại gia, để giữ cho hệ thống đạo Phật được bền chặt.
Luận tạng (Abhidharmah): bao hàm những tác phẩm nghị luận, với mục đích diễn giải rộng ý nghĩa kinh tạng, Kho tàng Luận-tạng rất lớn, đó là sự đóng góp miên tục của các Phật tử qua từng thời đại.
Sau khi Thế tôn nhập diệt, đại đệ tử Ca Diếp triệu tập đại hội kết tập những lời Phật dạy và định giới luật, ngăn ngừa những ngụy thuyết và những hành động si mê của tăng sĩ. Ðây là lần kết tập thứ nhất gồm trên dưới 500 đệ tử Phật, họp tại thành Vương xá. Tạng kinh mãi về sau mới được biên chép thành hai thứ chữ Pali và Sanskrit. Kinh do Ðại đức A-Nan đọc. Luật do Ðại đức Ưu-Ba-ly đọc. Còn Luận thì thuộc phần hậu thế diễn giải theo kinh. Kinh điển được kết tập lần thứ nhất này là kinh A-hàm và luật Bát -thập-tụng.
Khoảng một thế kỷ sau, cuộc kết tập thứ hai được tổ chức tại thành Tỳ-Xá-Ly, nhằm kiểm soát lại kinh điển và giáo luật, đồng thời xét về các dị thuyết hiện lưu hành trong đạo. Ký kết tập này manh nha cho cuộc phân phái sau này.
Theo truyền thuyết thì ngài Ðại-Thiên (Mahadeva) đề ra năm điều tân thuyết[3] thổi lên một phong trào Tự do tư tưởng trong đạo Phật: chia đạo Phật làm hai phái, phái bảo thủ truyền thống là Thượng tọa bộ, phái cấp tiến tự do là Ðại chúng bộ. Lần lần Thượng tọa bộ còn phân thành nhiều bộ khác như: Nhất thiết hữu bộ, Ðộc tử bộ, Pháp thượng bộ, Hiền vị bộ, Chính lượng bộ, Mật lâm sơn bộ, Hóa địa bộ, Pháp tặng bộ, Ẩm quang bộ và Kinh lượng bộ. Rồi Ðại chúng bộ cũng lại phân tán thành tám bộ: Nhất thuyết bộ. Thuyết xuất thế bộ, Kế dẫn bộ, Ða văn bộ, Tây sơn trụ bộ, Chế đa sơn bộ, Thuyết giả bộ và Bắc sơn trụ bộ. Thật là một quang cảnh náo nhiệt. Do những cuộc phân bộ này mà kho tàng đạo Phật trở thành rộng lớn mung lung tới độ khiến người học Phật hiện nay thường bị lạc mất hướng chính. Ðấy cũng là một trong những điểm quan trọng mà người hoằng pháp hôm nay phải lưu tâm, phải gạn lọc tinh lý Phật, trước khi trứ tác Phật điển.
Vì không những qua sự phồn tạp gần như trái ngược giữa các bộ phái, kể từ đời vua Ca-Nhị-Sắc-Ca vào thế kỷ thứ hai, đạo Phật dứt khoát chia làm hai ngành. Bắc phương Ðại chúng bộ, Nam hương Thượng tọa bộ để thi đua quang tỏa Phật pháp ra thế giới nữa: Bắc phương Phật giáo lấy Népal làm cứ điểm xuất phát Tây Tạng Trung Hoa rồi phân tán ra Mông cổ, Mãn Châu, Triều tiên, Nhật bản và Việt Nam. Nam phương Phật giáo đặt khởi điểm chính tại Tích Lan truyền sang Miến điện, Thái Lan, Cao miên và Lào. Ði đến đâu dung hợp tới đó, nên đạo Phật càng thêm nhiều đặc tính mới.
Hiện nay các nhà Phật học và các đại biểu chính thức của mỗi quốc gia đạo Phật đang cố gắng thực hiện cuộc thống nhất đạo Phật hầu cung ứng cho nhân loại một sức mạnh tinh thần để bảo vệ hòa bình và hạnh phúc cho con người trên toàn thế giới. Như thế có nghĩa trên hai nghìn năm phân hóa, lịch sử đạo Phật đang chuyển dần vào thế tổng hợp. Một chứng minh cụ thể là cuộc thống nhất tông phái Nam Bắc tông, trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã thể hiện vào mùa xuân năm 1964. Cuộc thống nhất này mở đầu cho cuộc thống nhất đạo Phật thế giới ngày mai. Muốn đẩy mạnh cuộc thống nhất đi đến thành công, Phật tử cần đập tan mọi vỏ cứng, mở tung mọi cửa lòng để đón gió ngàn phương, đồng thời tìm sâu vào nội dung căn bản của đạo Phật, của Ðức giáo chủ duy nhất.
Về kỹ thuật:
Với căn bản đạo Phật tuy không đủ điều kiện nhân lực, vật lực để thành lập một ngành kỹ thuật cơ giới, nhưng đạo Phật đã nói lên nguyên tắc căn bản của khoa học rồi vậy. Mà khoa học kỹ thuật vốn là kết quả của công cuộc suy tư thực nghiệm của con người. Nên trước khi có được nền khoa học cơ giới văn minh như ngày nay, lý thuyết khoa học phải có trước để dẫn lối cho công cuộc thực chứng của con người. Ngày nay khoa học càng tiến, càng đi sâu vào thế giới hạch tâm, vào lĩnh vực không gian thì càng thấy gần đạo Phật; tuy không xây dựng trên vật chất cực vi, nhưng với tâm linh giác ngộ, đạo Phật giải thích vũ trụ một cách rất khoa học. Khi khoa học tìm được năng lực nguyên tử tiềm ẩn trong vật chất thì cũng chính là lúc nhà trí thức quan tâm nhiều tới luận chứng của đạo Phật. Vì Phật đã quyết nhận trong mỗi loài, mỗi vật của vạn hữu đều có phần năng lực là Phật tính. Và, khi các nhà thiên văn học xác nhận ngoài thế giới chúng ta còn rất nhiều thế giới có sinh vật khác nữa, trong vũ trụ, thì trước đó hai thiên niên kỷ, sau khi rời cội bồ đề, đức Phật đã dạy rằng trong vũ trụ có tam thiên đại thiên thế giới,[4] ngoài thế giới chúng ta.
Thật là hoang đường viễn vông đối với nhận thức nhân loại đương thời của Ngài. Nhưng, tới nay, khoa học của thế giới văn minh chúng ta đã xác nhận.
Sơ lược mấy nét đại cương, ta thấy đạo Phật không chỉ là một Triết học, Ðạo học mà còn là một cơ bản của Khoa học. Ðạo Phật, ngoài công cuộc giải thoát tâm thức con người còn là một hệ thuyết thực tế có đủ khả năng, đủ điều kiện trở thành một nền Văn hóa toàn triệt gồm đầy đủ các yếu tố nghệ thuật, học thuật và kỹ thuật nữa. Nhưng vì chú trọng nhiều về tâm linh hơn, nên đạo Phật mang nhiều màu sắc tôn giáo, để rồi nhân loại quên mất những khía cạnh khác của đạo Phật.
Ðã đến lúc những người thừa kế đức sáng của đức Phật cần phải cụ thể hóa những nét tươi sáng của đạo Phật ra bằng hành động, để làm Ðẹp, làm Sáng, làm Lành cho con người và cuộc đời, để đạo Phật mãi mãi thích ứng với hoàn cảnh xã hội, đáp ứng được mọi nhu cầu của nhân loại trí thức thời đại.
Nói tới văn hóa đạo Phật một nền văn hóa tổng hợp đã truyền đời trên hai nghìn năm trăm năm nay là vượt sức một người, nhất là đem cô đọng trong một bài thì không thể tránh được những thiếu sót ngoài ý muốn. Nên, ở đây, chúng tôi chỉ sơ lược trình bày mấy nét chính mà thôi. Và xin tóm tắt:
Nét thứ nhất trình bày về Thời đại chúng ta và lối giải quyết của đạo Phật trong thực tế.
Nét thứ hai trình bày những Ngộ nhận của con người về đạo Phật.
Nét thứ ba trình bày những Nguyên tắc căn bản của đạo Phật.
Nét thứ tư trình bày về nền Văn hóa đạo Phật.
Tất cả với mục đích góp phần cùng Phật tử và độc giả bốn phương một vài ý kiến trong công cuộc hoằng pháp hiện nay.
Ánh sáng Từ Bi đến với chúng ta.
Thích Đức Nhuận
[1] Nguyên văn chữ Hán:
“Thử Hữu tắc bỉ Hữu
Thử Vô tắc bỉ Vô
Thử Sinh tắc bỉ Sinh
Thử Diệt tắc bỉ Diệt”[2] Chính kiến: thấy biết chân chính
Chính tư duy: suy nghĩ chân chính
Chính ngữ: Lời nói chân chính
Chính nghiệp: Việc làm chân chính
Chính mệnh: đời sống chân chính
Chính tinh tiến: siêng năng chân chính
Chính niệm: tưởng niệm chân tính
Chính định: định tâm chân chính[3] 5 điều của Ngài Ðại Thiên đề ra:
1.La Hán vẫn còn bị ma chướng khiến cho lậu thất trong giấc mộng
2. La Hán cũng vẫn còn bất nhiễm ô vô tri, nghĩa là học sai lầm về chính pháp
3. La Hán vẫn có những hoài nghi chưa giải quyết được
4. La Hán đắc quả không thể tự biết mà nhờ bậc Cao minh cho hay.
5. a Hán có thể liễu đạo là do âm thanh mà giác ngộ.[4] Tiếng Phạn: Trisàharasramahàsàhasre lokadhàtuh
___________________________________________
Suy nghĩ
hướng giáo dục đạo Phật
cho tuổi trẻ
Tuệ Sỹ
Phật giáo Việt nam đang chứng kiến những xáo trộn và khủng hoảng chưa từng có trong lịch sử. Các mô hình tổ chức, những lễ tiết sinh hoạt, từ ma chay, cưới hỏi các thứ, được cố gắng rập khuôn theo mô hình phương Tây một cách vội vã đã làm xói mòn phần nào truyền thống tâm linh của dân tộc. Thêm vào đó, dưới tác động của xã hội tiêu thụ, và sức ép của quyền lực chính trị làm nảy sinh những tâm trạng bệnh hoạn do bởi quan điểm thế quyền và giáo quyền thiếu nền tảng giáo lý. Tình trạng đó tất nhiên đã có những tác động tiêu cực lên đường hướng giáo dục thanh niên Phật tử Việt nam.
Ngày nay, nói đến tuổi trẻ Việt nam, có lẽ nên tượng hình như hai đường thẳng mà điểm hội tụ là một điểm trong xã hội tiêu thụ. Ðó là hai bộ phận tuổi trẻ trong nước và ngoài nước. Tuy tất cả cùng được giáo dục theo mô hình giáo dục phương Tây, nhưng do khác biệt định chế xã hội dựa trên quyền lực chính trị chứ không phải do xu hướng phát triển tự nhiên. Ðó là sự khác biệt giả tạo như vũng sình, không biết đâu là chỗ chắc thật để bám vào mà thoát thân. Tuổi trẻ Việt Nam đang bị bật rễ, do đó có nguy cơ mất hướng, hay thực sự đã mất hướng. Tuổi trẻ của đạo Phật Việt Nam cũng không ngoại lệ, và không dễ dàng vượt qua tình trạng mất hướng này. Ở đây tôi nói mất hướng là nhìn từ điểm đứng dân tộc. Tuổi trẻ ở nước ngoài chỉ cần quên, hay tạm thời quên, nguồn gốc Việt Nam của mình, thì hướng đi cho nhân cách được xác định ngay từ khi vừa bước chân vào cổng Ðại học. Nói cách khác, tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại không phải hoàn toàn bị bật rễ, nhưng ở trong tình trạng di thực. Quýt phương Nam đem trồng trên đất phương Bắc, có thể ngọt hơn, có thể chua hơn, và cũng có thể èo uột vì không hợp phong thổ. Tuổi trẻ trong nước là thân cây còn dính chặt với gốc rễ trên bản địa. Nhưng để sinh tồn, và muốn phát triển nhanh chóng, bị sức hút của sự thăng tiến tác động từ bên ngoài, nên có nguy cơ bật rễ. Ðại bộ phận tuổi trẻ Việt Nam ngày nay biết rất ít về quá khứ ông cha mình, đã yêu nhau như thế nào, đã suy nghĩ như thế nào để bắt kịp những giá trị tâm linh phổ quát của nhân loại.
Tuổi trẻ của đạo Phật Việt Nam tuy có thể được tin tưởng là còn cố bám chặt lấy gốc rễ truyền thống để vươn lên, nhưng do sự thiếu trách nhiệm hoặc thiếu nhận thức về hướng đi của thời đại của những người đang đứng trên cương vị giáo dục, vô tình chẳng khác nào bác sĩ không còn biết liệu pháp nào hay hơn là cho uống thuốc ngủ để người bịnh quên đi những nhức nhối của thời đại mà tuổi trẻ cần phải biết để chọn hướng đi tương lai cho đời mình. Mặt khác, do sức ép chính trị mà tuổi trẻ cần phải được tập hợp thành lực lượng tiền phong và hậu bị để bảo vệ chế độ, do đó việc giảng giải đạo Phật cho tuổi trẻ không được phép vượt qua các cổng chùa. Bên trong cổng chùa, tuổi trẻ chỉ được giảng dạy những ý nghĩa vô thường hay vô ngã không như là quy luật vận động để tồn tại, phát triển và hủy diệt của thiên nhiên và xã hội, mà như là một bức tranh toàn xám của cuộc đời được tô trét bởi những người mà tuổi đời đã mệt mỏi với những thành công và thất bại đã làm thui chột ý chí.
Trong một xã hội hội mà các giá trị tâm linh truyền thống đang bị băng hoại, một số thanh niên tác quái tại các đô thị lớn dựa vào quyền lực chính trị của cha chú, hay tiền của bất chính của bố mẹ; một số khác miệt mài học chỉ để làm thuê, làm những người nô lệ kiểu mới trung thành với những ông chủ giàu sụ. Một số khác, cam chịu thân phận nghèo đói, thất học, cam chịu tất cả nhục nhã của một dân tộc nghèo nàn lạc hậu. Trong tình trạng đó, sự hiện diện của các đoàn sinh GDPT, những đơn vị tập hợp các thanh niên biết tìm lẽ sống cho bản thân, thật sự là một thách thức xã hội, mà quyền lực chính trị cảm thấy như một đe dọa nếu không vận dụng được để phục vụ cho tham vọng đen tối, mà vì tham vọng ấy có khi sẵn sàng mãi quốc cầu vinh. Như thế thì, tất nhiên là ảo tưởng khi nói rằng, chúng ta chỉ tập họp tuổi trẻ để dạy đạo, không cần biết cái gì khác nữa. Nói thế chẳng khác nào lùa những nai con vào một chỗ để cho cọp dữ dễ dàng thao túng.
Tất nhiên, đất nước cần tuổi trẻ để xây dựng. Ðạo pháp cũng cần tuổi trẻ để thể hiện bản hoài tiếp vật lợi sinh của mình. Theo bản hoài đó, giáo dục đạo Phật cho tuổi trẻ không chỉ có mục đích chiêu dụ họ vào trong bốn vách tường nhà chùa để cách ly những phòng trà, hộp đêm, những môi trường cám dỗ, sa đọa. Tuy nhiên, cơ bản giáo dục đạo Phật vẫn phải là rèn luyện đạo đức, phát triển trình độ nhận thức tâm linh.
Trước hết, hãy nói về rèn luyện đạo đức. Ở đây hoàn toàn không có vấn đề nhồi nhét những tín điều đức lý. Nghĩa là, không nói với tuổi trẻ không được làm điều này, không được làm điều kia. Tuổi trẻ có thể làm bất cứ điều gì mà họ tự thấy thích ứng với thời đại. Nhưng không để cho tuổi trẻ bị lôi cuốn bởi những yếu tố độc hại của thời đại, không bị lệch hướng nhận thức bởi các phong trào thời thượng, do đó cần thiết lập một không gian an toàn, và di động. Không gian an toàn đó là bồ đề tâm. Tính di động, đó là vô trụ xứ của Bồ tát. Chúng ta cần nói thêm hai điểm này.
Lớn lên tại các đô thị phồn vinh, rồi bước vào xã hội với học vị cao, mức sống ổn định, một bộ phận tuổi trẻ ít khi trực tiếp sống với những đau khổ của các bạn trẻ khác ở những vùng đất tối tăm xa lạ. Thiếu đồng cảm về những khổ đau của đồng loại, do đó cũng thiếu luôn cả nhận thức về thực chất của sự sống, không thể hiểu hết tất cả ý nghĩa thiết cốt của khát vọng sinh tồn. Cho nên, đưa đạo Phật đến với tuổi trẻ, phải có nghĩa là đưa tuổi trẻ đến giáp mặt với thực tế của sinh tồn. Ðó là làm phát khởi bồ đề tâm nơi tuổi trẻ: “Nơi nào hiểm nạn, tôi nguyện sẽ là cầu đó. Nơi nào tối tăm, tôi nguyện sẽ ngọn đuốc sáng.” Ðây có thể là ước nguyện xa vời, thậm chí sáo rỗng đối với một số người. Nhưng đó chính là mặt đất kim cang để trên đó tuổi trẻ tự vạch hướng đi cho mình, tự quy định những giá trị sống thực cho chính đời mình.
Về tính di động, đó là tính mở rộng, không tự câu thúc vào trong một không gian xã hội chật hẹp, để có thể có tầm nhìn xa hơn, vượt ngoài thành kiến và truyền thống khép kín của xã hội mình đang sống. Nói cụ thể hơn, tuổi trẻ được giáo dục để luôn luôn ở trong tư thế sẵn sàng lên đường. Ðến bất cứ nơi nào trên trái đất này, nơi mà đau khổ được sống thực hơn, hạnh phúc được trắc nghiệm chân thực hơn. Trong một ý nghĩa khác, tính di động như vậy đồng nghĩa với tính phiêu lưu. Từ khi sống tại những đô thị được xem là ổn định, nhân loại đã dập tắt đi tính phiêu lưu nơi tuổi trẻ, nhưng khơi dậy tính du lịch nơi người lớn đi tìm những lạc thú mới để thay đổi khẩu vị thường nhật.
Tinh thần vô trụ xứ tất nhiên có nhiều điểm khác biệt. Vô trụ xứ nói, không trụ sinh tử, không trụ Niết bàn. Ðó là tinh thần khai phóng, không bị buộc chặt vào bất cứ giá trị truyền thống nào. Tuổi trẻ cần được học hỏi để sống với tinh thần khai phóng và bao dung, để tự minh định chuẩn xác giá trị các nền văn minh nhân loại, tự mình chọn hướng đi thích hợp trong dòng phát triển hài hòa của tất cả các nền văn minh nhân loại, tuy khác biệt tín ngưỡng, khác biệt tập quán tư duy, khác biệt cả phong thái sinh hoạt thường nhật.
Về sự phát triển trình độ nhận thức tâm linh nơi tuổi trẻ, ở đây chúng ta nói đến sự học tập thông qua Kinh điển truyền thống. Tam tạng Thánh điển là kho tàng kiến thức bao la. Dựa trên những lời dạy căn bản của đức Phật về giá trị của sự sống, bản chất của đau khổ và hạnh phúc, trên đó nhiều quy luật về thiên nhiên, về xã hội, về tâm lý, ngôn ngữ, của con người lần lượt được phát hiện qua nhiều thời đại trong nhiều khu vực địa lý có truyền thống lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng, trong toàn bộ lịch sử các nền văn minh nhân loại, đang tồn tại hay đã biến mất, không một học thuyết nào mà không từng bị nhận thức của người đời sau vượt qua. Có học thuyết bị vượt qua và bị đào thải luôn. Có học thuyết bị vượt qua, rồi được phục hoạt. Nhưng có rất ít học thuyết được phục hoạt mà bản chất không bị biến dạng. Biến dạng cho đến mức nếu so sánh với quá khứ, nó như là quái thai. Giáo lý của Phật khẳng định quy luật vô thường, nên vấn đề là khế lý và khế cơ, chứ không phải là vấn đề bị hay không bị vượt và đào thải.
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống. Cho nên, sự học Phật pháp không hề cản trở sự học thế gian pháp; kiến thức Phật học không xung đột với kiến thức thế tục. Duy chỉ có điều khác biệt, là học Phật khởi đi từ thực trạng đau khổ của nhân sinh để nhận thức đâu là hạnh phúc chân thật.
Bi và Trí là đôi cánh chắc thật sẽ nâng đỡ tuổi trẻ bay liệng vào suốt không gian vô tận của đời sống.
___________________________________________
Ðạo Phật với thanh niên
Tuệ Sỹ
Mỗi người trong chúng ta sống và đi tìm một cái gì đó, một ý nghĩa nào đó, cho sự sống hay lẽ sống của mình. Với tuyệt đại đa số, tình yêu và hạnh phúc là lẽ sống, hoặc là tài sản, hoặc danh vọng, hoặc quyền lực, là lẽ sống.
Các anh chị thân mến,
Ðề tài thảo luận của chúng ta hôm nay là “Ðạo Phật với Thanh niên”. Tiêu đề như thế thường gây ấn tượng rằng có nhiều hình thái đạo Phật khác nhau; và mỗi hình thái cho từng lứa tuổi, hay tùy theo thành phần xã hội khác nhau. Nhưng cũng có thể hiểu, chỉ có một đạo Phật mà thôi, và nội dung thảo luận của chúng ta nay sẽ xem xét đạo Phật ấy có những đặc điểm gì được xem là cơ bản, rồi từ đó rút ra kết luận rằng, đạo Phật trong ý nghĩa như vậy có phù hợp với tuổi trẻ hay không? Tất nhiên, các Anh Chị ở đây đều là Phật tử, do đó câu trả lời đã có sẵn từ bao lâu rồi. Dù nói theo ý nghĩa nào, hay nhìn vấn đề từ góc cạnh nào, chúng ta sẽ không nêu ra bất cứ định nghĩa, và cũng không quy chiếu đạo Phật vào những yếu tính hay đặc tính nào.
Nói thế, có khi cũng hơi khó cho các Anh Chị vấn đề. Chắc ở trong đây cũng có nhiều Anh Chị đã từng đọc sách Thiền, và có thể đã nghe nói đến công án Thiền, đại khái như thế này. Một người hỏi Thiền sư: Phật là gì? Thiền sư đáp: “Ba cân gai”. Không phải là câu chuyện bông đùa, cũng không phải Thiền sư muốn đưa ra một mệnh đề triết học siêu nghiệm rắc rối. Bởi vì, ở đây chúng ta đi tìm ý nghĩa của đời sống, tìm để phát hiện những giá trị của đời sống. Nói theo cách nói của một nhà văn hay nhà thơ, chúng ta không định nghĩa, không mô tả, vì chúng ta không đi tìm kiến thức bách khoa về sự sống, mà đi tìm hương vị đích thực của nó. Như con ong đi tìm hoa, không phải chỉ tìm hương sắc của hoa. Hương sắc của hoa chỉ là tín hiệu của giá trị tồn tại. Nó tìm hoa để hút mật, làm dưỡng chất cho tồn tại của mình và cho tất cả nòi giống của mình.
Tuổi trẻ thường được nhắc nhở, khuyên bảo rằng cần phải học hỏi để sống cho đáng sống. Ca dao cũng nói rằng “làm trai cho đáng nên trai, xuống đông đông tĩnh lên đoài đoài yên”, và các bạn trẻ hiểu rằng, ta sẽ phải làm nên sự nghiệp hiển hách nào đó kẻo không thì sẽ uổng phí cuộc đời. Rồi bạn ấy làm nên sự nghiệp lớn thật, và người đời thán phục. Chúng ta cũng hết sức thán phục. Nhưng hãy nhìn sâu vào đôi mắt của bạn ấy một chút, nếu có ai trong chúng ta đây có vinh dự được nhìn. Chúng ta thấy gì? Những phương trời cao rộng, để cho “cánh hồng bay bổng tuyệt vời”, hay một phương trời tiếc nuối, “khi ngoảnh lại ngắm màu dương liễu, thà khuyên chàng đừng chịu tước phong”? Cả hai. Người đuổi bắt ảo ảnh để tìm ảnh thực vĩnh cửu của chính mình. Vị ngọt của đời ở đâu, trong cả hai?
Bây giờ chúng ta hãy tạm rời bức tranh lãng mạn ấy, để nhìn sang một hướng khác. Có hình ảnh nào đáng chiêm ngưỡng hơn hay không? Cũng còn tùy theo điểm đứng nghệ thuật của người nhìn.
Thuở xưa, có một vương tử, mà ngai vàng đã dọn sẵn, vó ngựa chinh phục cũng đã sẵn sàng yên cương. Rồi một đêm, khi cả cung đình đang ngủ say trong giấc ngủ êm đềm của uy quyền, danh vọng, giàu sang; vương tử gọi quân hầu thắng cho ngài con tuấn mã trường chinh.
Nhưng vó ngựa trường chinh của ngài không tung hoành chiến trận. Thanh gươm chinh phục của ngài không đánh gục những chiến sĩ yếu hèn. Gót chân vương giả từ đó lang thang khắp chốn sơn cùng thủy tận: cô đơn bên bờ suối, dưới gốc cây. Ngài đi tìm cái gì? Ta hãy nghe Ngài nói: “Rồi thì, này các Tỳ kheo, một thời gian sau, trong tuổi thanh xuân, khi tóc còn đen mượt, với sức sống cường tráng; mặc dù cha mẹ không đồng ý với gương mặt đầm đìa nước mắt, Ta đã cạo bỏ râu tóc, khóac áo ca – sa, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta trong khi ra đi như vậy, làm người đi tìm cái gì đó chí thiện, tìm con đường hướng thượng, tìm dấu vết của sự tịch mịch tối thượng”. Ngài đi tìm và khai phát con đường dẫn về thế giới bình an và hạnh phúc vĩnh cửu.
Rồi con đường ấy được công bố, được giới thiệu cho những ai như những đóa sen tuy sinh trưởng từ bùn sình, nước đọng, đang đã có thể vươn lên khỏi bùn sình, bản thân không bị nhiễm mùi tanh hôi của bùn sình. Tuy vậy, không phải ngay từ đầu con đường vừa được khám phá và công bố ấy được tiếp nhận một cách đầy tin tưởng bởi tất cả mọi người. Số người chống đối không phải ít.
Khi đức Ðạo sư trẻ tuổi đến Magadha, vương quốc hùng mạnh nhất thời bấy giờ, nhiều thanh niên con nhà gia thế, như Yasa cùng các bạn bè, và các thanh niên trí thức hàng đầu như Sariputta và Moggallana, và nhiều thanh niên quý tộc, vương tôn công tử, tiếp nối nhau từ bỏ gia đình, từ bỏ địa vị xã hội sang cả, chọn con đường vinh quang của Chân lý. Từ một góc độ nào đó mà nhìn, sự ra đi của họ tạo thành một khoảng trống lớn cho xã hội, làm đảo lộn nếp sống đã thành thói quen của quần chúng. Dân chúng lo ngại. Họ thì thầm bàn tán, rồi phiền muộn, rồi thất vọng, và rồi giận dữ. Dư luận gần như dấy lên đợt sóng phải đối: “Sa – môn Gotama làm cho những người cha mất con, những bà vợ trẻ trở thành góa bụa. Sa – môn Gotama làm cho các gia đình có nguy cơ sụp đổ”. Dư luận phản đối ấy không kéo dài đủ để gây thành làn sóng phản đối. Chẳng mấy chốc, những người cha, những bà vợ trẻ ấy nhận thấy không phải họ bị phản bội hay bị bỏ rơi cho số phận cô đơn, mà họ được chỉ cho thấy hương vị tuyệt vời của tình yêu và hạnh phúc mà trong một thời gian dài họ không tìm thấy.
Như thế, trong những ngày đầu tiên khi vừa được công bố, con đường chí thiện, con đường tối thắng và tối thượng của thế gian, dẫn đến thế giới bình an vĩnh cửu không phải bằng sức mạnh chinh phục của gươm giáo, mà bằng sức mạnh của từ bi và trí tuệ; con đường ấy được nồng nhiệt tiếp nhận bởi những con người rất trẻ, bởi tầng lớp ưu tú nhất của xã hội; tầng lớp định hướng tương lai của xã hội.
Rồi ba thế kỷ sau, một bạo chúa với đạo quân hùng mạnh bách chiến bách thắng, sau một trận tàn sát khốc liệt, chống gươm đứng nhìn hàng vạn xác chết chợt thấy rằng chiến thắng oanh liệt đẫm máu này không thể là sức mạnh tối thượng để có thể chinh phục lòng người. Dù nó mang lại cho người chiến thắng những giây phút vinh quang ngây ngất. Vị hoàng đế trẻ cảm thức sâu xa đó không phải là nguồn suối của bình an và hạnh phúc. Kể từ đó, đế quốc mênh mông không cần được bảo vệ bằng sức mạnh của gươm giáo; thần dân của đế quốc sống trong thái bình thịnh trị, được bảo vệ bằng sức mạnh của từ bi và khoan dung.
Có lẽ chúng ta nên dừng lại ở đây. Hình ảnh ấy đối với nhiều người quá cao xa, nhìn lâu tất choáng ngợp. Dù vậy, tự thâm tâm của mình, không một bạn trẻ nào, dù là nam hay nữ, không cảm nhận rằng mình đang được thúc đẩy bởi một động lực không thể cưỡng, đó là khát vọng chinh phục. Chinh phục tình yêu, chinh phục danh vọng, chinh phục địa vị. Dù nhìn từ góc độ nào, dù tiến theo hướng nào; chúng ta như những trẻ nít đuổi theo cánh bướm. Khi đã nắm được xác bướm trong lòng tay, ít ai tự hỏi: chinh phục và chiến thắng này có ý nghĩa gì? Và ta vẫn mãi miết đuổi theo những cánh bướm này rồi đến cánh bướm khác. Trong lịch sử loài người, có bao nhiêu nhà chinh phục vĩ đại, sau chiến thắng, lại cảm thấy ta cũng chỉ là một con đường yếu đuối trước sức mạnh bao dung của tình yêu nhân loại?
Vó ngựa của Thành – cát – tư Hãn không chùn bước trước bất cứ kẻ thù nào, nhưng tâm tư của Ðại Hãn cảm thấy bất an khi nhìn sâu vào cuối con đường chinh phục một bóng dáng đang thấp thoáng đợi chờ. Ðó là kẻ thù cần phải chinh phục sau cùng. Ðại Hãn cũng biết rằng dẫu cho tập hợp sức mạnh của trăm vạn hùng binh cũng không thể đánh bại kẻ thù ấy, chinh phục vương quốc ấy. Ông cho đi tìm một người trợ thủ, tìm cố vấn thông thái nhất và khôn ngoan nhất để tập hợp được sức mạnh siêu nhiên. Sứ giả của Ðại Hãn đi vào núi Chung nam thỉnh cầu Ðạo trưởng Khưu Xử Cơ. Ðạo trưởng khởi hành, băng sa mạc, đến tận đại bản doanh của Ðại Hãn, để giảng giải cho Ðại Hãn ý nghĩa trường sinh bất tử, những ẩn nghĩa huyền vi từ quyển thiên thư năm nghìn chữ của Thái thượng Lão quân. Cuối quyển thiên thư, khi tất cả ẩn ngữ coi như đã phơi bày ý nghĩa thâm sâu. Khả hãn chỉ xác nhận được một điều: ta sẽ là người chiến bại trong cuộc chiến cuối cùng ấy.
Vậy, ý nghĩa của chinh phục là gì?
Mỗi người trong chúng ta sống và đi tìm một cái gì đó, một ý nghĩa nào đó, cho sự sống hay lẽ sống của mình. Với tuyệt đại đa số, tình yêu và hạnh phúc là lẽ sống, hoặc là tài sản, hoặc danh vọng, hoặc quyền lực, là lẽ sống. Người ta tự đày đọa tâm trí mình, làm khổ nhọc hình hài mình, để đuổi bắt những gì được coi là tinh hoa của đời sống. Người ta cũng biết rằng ngoài những cái lẽ sống phù du, ảo ảnh của hạnh phúc, còn có những phương trời cao rộng, còn có con đường chí thiện; nhưng chỉ một số rất ít người bước theo hướng đó, và lại rất ít người đến đích. Vì sao thế?
Có một nhà nghiên cứu văn học, khi viết về nhà thơ Lý Bạch, không tiếc lời ca ngợi con người tài và đời sống phóng khoáng ấy. Rồi nhà nghiên cứu kết luận: nhưng chúng ta không sống như Lý Bạch được, vì chúng ta còn có gia đình vợ con, và nhiều thứ ràng buộc khác. Phải chăng tất cả chúng ta đều sinh ra với một dây thòng lọng treo sẵn nơi cổ, còn Lý Bạch thì không? Phải chăng chúng ta chỉ được phép chiêm ngưỡng, thán phục những cuộc đời và những nhân cách cao thượng, như người hành khất đói rách chỉ được phép từ xa đứng nhìn một cách thèm thuồng những ngọc ngà châu báu trên thân thể một công nương mỹ miều? Lý Bạch không thể sống như ta, và ta cũng chẳng cần phải trở thành người như Lý Bạch để được người đời thán phục. Mỗi người ẩn chứa trong tự thân một kho báu vô tận. Cần gì phải vay mượn hay ăn cắp giá trị của tha nhân. Không nên tự đánh giá mình quá thấp kém.
Người cùng tử trong kinh Pháp Hoa, không dám vọng tưởng bản thân là con trai và cũng là người thừa kế duy nhất của vị trưởng giả giàu sang, mà thế lực có khi còn lấn lướt trên hàng khanh tướng của triều đình. Anh chàng trai trẻ này cảm thấy sung sướng khi người ta nhận mình làm một tôi tớ hèn mọn, và rất lấy làm vinh dự được là tôi tớ hèn mọn của gia đình sang cả ấy. Vinh dự với công việc quét dọn các hố xí. Vinh dự được nằm ngủ trong chuồng ngựa. Thế nhưng, tự bản chất, trong huyết thống, và như một định mệnh quái dị, nó phải là người thừa kế duy nhất của gia đình ông trưởng giả. Nó chỉ được công nhận tư cách thừa kế khi nào tự nhận ra nguồn gốc huyết thống của mình, tự khẳng định giá trị cao sang của mình. Không thể rằng một kẻ tự xác nhận giá trị con người của nó không cao hơn giá trị con ngựa nòi của ông chủ, mà kẻ đó lại có ý nghĩa muốn khẳng định mình là kẻ thừa kế duy nhất. Ðó không phải là thừa kế, mà là âm mưu sang đoạt. Chắc chắn nó sẽ phải bị trừng phạt vì tham vọng điên rồ. Ở đây, trong khi chúng ta không tự khẳng định được phẩm chất cao quý của mình, không nhìn thấy những giá trị cao cả của đời sống; những giá trị không cao hơn các hàng ghế và các nấc thang xã hội đã được cố định như là trật tự không thể đảo lộn; ấy thế mà nghĩ rằng “Ta là Phật tử”, nghĩa là kẻ thừa tự hợp pháp của gia tộc Như lai, há chẳng phải là một sự soán nghịch chăng?
Trong số những người bạn trẻ của tôi, không ít người cố vươn lên, tự khẳng định giá trị bản thân; tự cho rằng khi cần và nếu muốn thì có thể khoác lên mình phẩm phục sang nhất, ngồi ở địa vị cao nhất trong xã hội không phải là khó; và khi không cần thiết thì cũng có thể “vứt bỏ ngai vàng như đôi dép rách”. Những người bạn ấy, sau một thời gian vật lộn với đời để tự khẳng định giá trị của mình, có bạn “may mắn” leo lên được chiếc ghế cao, bỗng chợt thấy tất cả ý nghĩa và giá trị của đời sống đều được vẽ vời, được khắc chạm lên chiếc ghế này. Từ đó, họ cố buộc chặt mình vào đó, và quyết tâm bảo vệ nó “với bất cứ giá nào”.
Cũng có người bạn, sau cuộc tình đổ vỡ, chợt thấy hạnh phúc trong vòng tay chỉ là ảo ảnh. Anh tìm đến tôi sau những ngày lang thang, đau khổ. Không phải anh đến tìm nơi tôi một nguồn an ủi, mà đến để giảng cho tôi một bài pháp rất hay về nghĩa của tình yêu và vĩnh cửu; hạnh phúc chân thật và lẽ sống cao cả, chí thiện. Trong khi lặng lẽ nghe anh nói, cảm thấy như mình đang uống từng giọt nước cam lồ ngưng tụ từ những giọt nước mắt nóng bỏng; và thầm tự hỏi: bạn mình đã “chứng ngộ Niết bàn” rồi chăng? Phải thú nhận rằng, bây giờ, đã ba mươi năm sau, tôi vẫn không quên được “bài thuyết pháp” tuyệt vời ấy. Nhưng chỉ một thời gian ngắn thôi; anh lại lao mình chạy theo những cuộc tình mới. Tôi hỏi. Anh nói, hương vị ngọt ngào của mối tình đầu ấy không nhạt mờ theo năm tháng được. Nó vĩnh viễn ẩn kín ở một góc tối nào đó trong trái tim anh. Anh đuổi theo những mối tình hời hợt, thoáng chốc; chạy theo danh vọng phù hoa; tất cả chỉ muốn quên đi những gì đã đi và đi mất mà không bao giờ níu kéo lại được. Thỉnh thoảng, nhớ lại anh, tôi tự hỏi, bây giờ thực tế anh đang gặt hái những thành công trên đường đời; nếu nghĩ lại những năm tháng của tuổi trẻ ấy, anh có thấy mình dại dột chăng? Là đuổi bắt ảo ảnh chăng? Và giữa hai quãng đời ấy, thật sự đâu là ảo ảnh?
Người ta nói, tuổi trẻ các bạn đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời; vậy hãy chuẩn bị hành trang mà vào đời. Tôi muốn nói cách khác. Bằng tuổi trẻ của mình đã đì qua, tôi muốn nói rằng, tuổi trẻ các bạn đang được đặt trước hai câu hỏi cần phải trả lời dứt khoát, hay trước hai ngả đường cần phải lựa chọn không lưỡng lự: tình yêu và sự nghiệp. Trước mặt các bạn là con đường thăm thẳm, đang ẩn hiện mơ hồ dưới ánh sao mai. Chưa phải là buổi bình minh để các bạn thấy rõ mình đang đứng đâu và con đường mình sẽ đi đang dẫn về đâu. Và trước mắt có thật sự là hai ngả đường phải lựa chọn, hay thực tế chỉ một mà thôi? Các bạn sẽ tiến tới theo hướng nào? Học tiến lên theo con đường công danh sự nghiệp, bởi vì “đã sinh ra ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”? Hay săn đuổi bóng dáng một mùa xuân vĩnh cửu? Cả hai ý nghĩa, các bạn trẻ đều hiểu rõ. Chúng ta không cần biện giải dài dòng. Có điều, sự hiểu biết của các bạn về con đường trước mắt không phải do chính mình đã nhìn thấy, như thấy rõ con đường mình đang đi, khi ánh bình minh xuất hiện; mà do dấu vết của nhiều thế hệ đì trước. Dễ có mấy ai tự vạch cho mình một lối đi riêng biệt, không dẫm theo bất cứ lối mòn nào.
Lần bước theo những vết mờ của người đi trước, tuổi trẻ định hướng cho tương lai của mình. Trong số họ, rất ít người bước ra khỏi bóng đêm của rừng rậm, để bằng chính đôi mắt của mình, nhìn thấy rõ con đường đang đi đang chạy theo hướng nào, dưới mặt trời rực sáng của ban mai.
Chúng ta hãy đi tìm một người trong số rất ít người ấy. Người không xa lạ với chúng ta. Tôi muốn nhắc các ban vua Trần Nhân Tông. Tuổi trẻ, lớn lên giữa cung đình xa hoa, đầy lạc thú, nhưng người thiếu niên vương giả lại sống như một ẩn sĩ ngay giữa hoàng thành. Trường trai, khổ hạnh; không biết người ta có nhìn thấy phong độ hào hoa nơi thiếu niên vương giả này hay không. Nhưng vua cha nhìn thân thể gầy còm của người kế vị ngai vàng mà khóc: Biết con có đủ nghị lực để giữ vững giềng mối giang sơn chăng? Tuy vậy, con người ấy, về sau, khi ngự trị trên ngai vàng, làm chủ một đất nước, không chỉ đã tự khẳng định giá trị bản thân, mà còn khẳng định ý nghĩa sinh tồn của một dân tộc. Dù ngồi trên bệ rồng cao vời vợi; dù xông pha chiến trận; hay dù trên vó ngựa khải hoàn, từ những chiến thắng oanh liệt; mà cho đến nay, trong bóng đền khuya, trong bóng đêm tịch mịch của lịch sử, chúng ta vẫn mường tượng nhịp mõ công phu và giọng kinh man mác nhưng vẫn rành rọt khí phách anh hùng của bậc quân vương vốn coi ngai vàng như đôi dép bỏ: “Nhất thiết hữu vi pháp, Như mộng huyễn bào ảnh”. Làm sao trong con mắt nhìn, thế giới này chỉ tồn tại như hạt sương trên đầu cỏ, lại có thể định hướng không chỉ cuộc đời của riêng mình mà cho cả vận mệnh của dân tộc? Hy vọng các bạn trẻ có thể tự mình tìm thấy câu trả lời. Bởi vì, nếu các bạn có thể trả lời được câu hỏi ấy, các bạn cũng có thể định hướng cuộc đời của mình mà không e ngại rằng sẽ có điều nhầm lẫn.
Bây giờ, chúng ta hãy trở lại đề tài thảo luận. Rất nhiều Anh Chị khi nghe đọc lên đề tài, nghĩ rằng diễn giả sẽ nêu lên một hình thái đạo Phật như thế nào đó, sau đó nghiệm xét xem hình thái ấy có những điểm nào phù hợp với tuổi trẻ, ích lợi thiết thực cho tuổi trẻ. Cho đến đây, chưa có hình thái nào được giới thiệu. Có Anh Chị nào cảm thấy thất vọng không? Cũng nên thất vọng một ít. Như thế để chứng tỏ rằng chúng ta đến với đề tài không phải thụ động; ai nói sao nghe vậy. Nhất định, phải có sự lựa chọn; dù không phải là lựa chọn một cách tùy tiện.
Khởi đầu của nhận thức, tất phải có sự lựa chọn. Hoạt động trí năng của tuổi trẻ, trước tất cả, là khả năng lựa chọn. Tuổi trẻ học tập để biết lựa chọn. Ðịnh hướng cho tương lai của mình bằng sự lựa chọn sáng suốt.
Vả lại, ở đây ta cũng không nên thất vọng nếu nói rằng không có một hình thái đạo Phật nhất định nào dành riêng cho tuổi trẻ. Chỉ có một mảnh trăng trên trời. Nhưng là trăng bạc màu tang tóc; hay trăng tươi mát hồn nhiên; hoặc là trăng thề làm chứng cho trái tim chung thủy; và cũng có khi là “trăng già độc địa làm sao, xe dây chẳng lựa buộc vào như chơi”. Cũng có tuổi trẻ đến với đạo Phật, mong cầu giọt nước cành dương làm sống dậy một tâm hồn khô héo vì tình yêu bị phản bội. Cũng có tuổi trẻ đến với đạo Phật để gột rửa sạch “gót danh lợi bùn pha sắc xám, mặt công hầu nắng rám mùi dâu”. Các bạn trẻ ấy tự tìm thấy hình thái đạo Phật thích hợp với mình. Nếu đạo Phật không đáp ứng được cho những tâm hồn đau khổ, chán chường cuộc sống ấy, chẳng khác nào y sĩ từ chối bịnh nhân. Vậy thì, các bạn trẻ cũng nên tự mình tìm cho mình một hình thái cho đạo Phật thích hợp; không phải là hình thái được lập thành khuôn mẫu do bởi các Anh Chị trưởng, do các Ðại đức, Thượng tọa, hay do các nhà nghiên cứu uyên bác. Một thiền sư Việt nam đã nói: “Nam nhi tự xung thiên chí, hưu hướng Như lai hành xứ hành”. Ta hãy đi con đường do chính ta lựa chọn, không cần gì phải lắt nhắt theo dấu vết của Như lai. Khẩu khí này nhiều khi khiến ta sợ hãi, e rằng có quá tự phụ, quá ngạo mạn chăng? Ðừng có phổ nhạc những lời ấy thành giai điệu với tiết tấu hành khúc dồn dập, mà hãy thử phổ thành một sonata nhỏ của mặt hồ tĩnh lặng, ta sẽ nghe được âm hưởng này: hãy bình thản tự chọn cho mình một hướng đi, sẵn sàng chịu trách nhiệm đối với hậu quả xuất hiện trên hướng đi ma ta đã chọn. Lời Phật cần ghi nhớ: “Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm”. Và còn có lời Phật khác nữa: “Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai; chớ đừng là kẻ thừa tự tài vật”.
Các bạn trẻ đang học tập để chuẩn bị cho mình xứng đáng là kẻ thừa sự. Kế thừa gia nghiệp của ông cha, cũng dòng họ. Kế thừa sự nghiệp của dân tộc. Kế thừa di sản nhân loại. Dù đặt ở vị trí nào; bản thân của các bạn trẻ trước hết phải sẽ là người thừa kế. Thành công hay thất bại trong sự nghiệp thừa kế của mình, đó là trách nhiệm của từng người, của từng cá nhân. Hãy tự đào luyện cho mình một trí tuệ, một bản lãnh, để sáng suốt lựa chọn hướng đi, và dũng cảm chịu trách nhiệm những gì ta đã lựa chọn và gây ra cho bản thân và cho cả chúng sanh.
Không có đạo Phật chung chung cho đồng loạt tuổi trẻ. Mỗi cá nhân tuổi trẻ là biểu hiện của mỗi hình thái đạo Phật sinh động.
Chúc các Anh Chị có đầy đủ nghị lực để chinh phục những vương quốc cần chinh phục; để chiến thắng những sức mạnh cần chiến thắng.
Nền giáo dục vượt qua
Thích Thái Hòa
Sự nghiệp học hành của ta thiết lập trên nền tảng của tham, thì ta càng học lòng tham của ta càng tăng thêm, nên càng học càng dẫn ta đến đời sống láo lường và thủ đoạn để thủ lợi. Và hậu quả của cái học ấy dẫn đến hại mình, hại người trong đời này và đời sau.
Sự nghiệp học hành của ta thiết lập trên nền tảng của sân hận, thì ta càng học là lòng sân và sự thù hận của ta đối với mọi người càng tăng lên, nên càng học ta càng tăng thêm sự hung hăng, tranh chấp, phê phán và bạo động với mọi người. Hậu quả của cái học ấy dẫn đến hại mình, hại người trong đời này và đời sau.
Sự nghiệp học hành của ta thiết lập trên nền tảng của ngu si, tà kiến, thì ta càng học là càng hiểu sai chân lý và sự ngu dốt, tính chấp ngã nơi ta càng tăng thêm, nên càng học lại càng dẫn ta đến chỗ ngu si, vô trí. Hậu quả của cái học ấy dẫn ta đến chỗ hại mình, hại người ngay trong đời này và đời sau.
Sự nghiệp học hành của ta thiết lập trên nền tảng của tâm bồ – đề, thì ta càng học, lòng tham nơi ta càng teo lại, sự hiểu biết nơi ta càng lúc càng tăng lên, tình thương nơi ta càng được mở ra rộng lớn. Kết quả của sự học ấy, giúp ta gần gũi và khám phá được sự thật của cuộc sống, dẫn đến đời sống lợi mình, lợi người trong hiện tại và tương lai.
Sự nghiệp học hành của ta thiết lập trên nền tảng của nguyện, nghĩa là ta học với ước nguyện duy nhất là thành tựu sự nghiệp trí tuệ để giúp đời, nên ta càng học là hạnh phúc của ta càng tăng lên, sự hiểu biết của ta đối với mọi vấn đề càng lúc càng sâu xa và chính xác. Kết quả của sự học ấy, dẫn ta đi đến đời sống chí thượng, có đầy đủ năng lực để sống đời giải thoát và tự do.
Sự nghiệp học hành của ta thiết lập trên nền tảng của hành, nghĩa là ta học những gì cao quý, tốt đẹp và ta biến cái đó trở thành hiện thực trong đời sống của ta, nên ta học là để hành và để trở thành nếp sống, chứ không phải học là để tích lũy kiến thức, để giỏi lý luận, để tranh biện hơn người và nêu cao bản ngã. Kết quả của sự học trên nền tảng của hành, giúp ta tiêu trừ được bản ngã, và có khả năng giúp ta chấm dứt được những nhận thức sai lầm, những tư duy phiến diện, đem lại cho ta và người, một nếp sống an bình thiết thật ngay trong hiện tại và tương lai.
Nền giáo dục thiết lập trên nền tảng của tham dục, sân hận, si mê và hữu ngã, nó có khả năng dẫn đưa cả người dạy và người học chạy đua theo dòng chảy của ái thủ và hữu trong mười hai duyên khởi và bị dòng chảy ấy nhận chìm trong biển đời sinh tử.
Nên, ở kinh Bộc lưu, đức Phật dạy cho các Tỷ – khưu rằng, đối với dòng chảy ấy không nên đi theo, không nên dừng lại, vì đi theo sẽ bị chúng nhận chìm và dừng lại thì sẽ bị chúng trói buộc mà cần phải vượt qua.
Vượt qua dòng chảy của tham, sân, si, kiêu mạn và chấp thủ đối với sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn nơi tâm ta, ta mới có thể vượt qua được dòng chảy của sinh tử, để đến được bến bờ giải thoát và giác ngộ.
Phát khởi tâm bồ – đề hướng tới đời sống chí thượng, nuôi dưỡng tâm ấy bằng chất liệu của nguyện và hạnh, qua lục độ và bốn nhiếp sự, ta vượt qua tử sinh và sẽ đem lại lợi ích cho nhiều người, không những trong hiện tại mà còn cả tương lai.
Nền giáo dục Phật giáo vượt qua tham sân si, vượt qua sự chấp thủ năm uẩn này, có gốc rễ từ đức Thế Tôn và được chư vị Tổ sư chứng nghiệm và truyền thừa trải qua các thời đại. Ấy là nền giáo dục Phật giáo không cần khoa bản mà chỉ cần “dĩ tâm ấn tâm”. Nghĩa là thầy dùng tâm giác ngộ mà ấn chứng vào tâm giác ngộ của học trò, để xác nhận rằng, người học trò ấy có khả năng kế thừa kho tàng của chánh pháp và làm cho chánh pháp sáng rỡ giữa thế gian này, để đem lại lợi ích cho hết thảy muôn loài.
Nếu Phật giáo không thiết lập giáo dục trên nền tảng vượt qua này, thì ta lấy cơ sở nào để bảo rằng, đó là nền giáo dục Phật giáo. Người giáo dục và người được giáo dục đều chạy theo tham dục và khuếch đại bản ngã, thì lấy cơ sở nào, để ta bảo rằng, họ là những người làm giáo dục và được giáo dục ở trong Phật giáo?!
Con đường giáo dục
Thích Thái Hòa
Nền giáo dục thiết lập trên nền tảng hiểu biết sự liên hệ giữa nhân duyên, nhân quả của cá nhân và cộng đồng không phải trong một thời gian mà mọi thời gian, và không phải trong một không gian mà mọi không gian là hết sức cần thiết cho đời sống hòa bình, an lạc và văn minh của chúng ta, khiến tự nó có khả năng vãn hồi trật tự và hoàn thiện cho xã hội của chúng ta ngày nay.
Hạnh phúc là từ ngữ không phải tất cả chúng ta chỉ nói với nhau trên môi, mà còn là niềm ước mơ muôn thuở trong lòng của mỗi chúng ta và nó cũng là định hướng cho chúng ta trong mỗi việc làm hàng ngày.
Tuy ước mơ và định hướng như vậy, nhưng ở trong đời đã có mấy ai có hạnh phúc và khám phá ra được ý nghĩa đích thực của nó?
Có người cho rằng, hạnh phúc là những cảm giác dễ chịu và lâng lâng khi mắt ta tiếp xúc với các hình sắc và màu sắc thích ý; hay hạnh phúc là những cảm giác dễ chịu khi tai ta nghe những âm thanh vi diệu; mũi ta ngửi những hương thơm; lưỡi ta tiếp xúc và nếm được những mùi vị thích ý của các loại thực phẩm; thân ta xúc chạm với các đối tượng khả ái của thân thể và những sự tiếp xúc ấy đã cho ta những cảm giác thích ý, vừa lòng; ý ta tiếp xúc với các đối tượng làm phát sinh trong ta những cảm giác dễ chịu từ một điểm đến toàn thể và phát triển từ một điểm thấp nhất đến một điểm cao nhất.
Nếu ý nghĩa của hạnh phúc là như thế, thì chúng cũng chưa bao giờ là ý nghĩa hạnh phúc hiện thực cho mỗi chúng ta và trong mỗi chúng ta chưa một ai từng đạt được và sống với ý nghĩa hạnh phúc như thế.
Vì không phải lúc nào và ở đâu, ta nhìn mọi hình sắc cũng vừa ý; không phải lúc nào và ở đâu ta nghe mọi âm thanh cũng vừa ý; không phải lúc nào và ở đâu ta ngửi các hương thơm cũng vừa ý; không phải lúc nào và ở đâu lưỡi ta tiếp xúc với các mùi vị cũng vừa ý; không phải lúc nào và ở đâu thân ta tiếp xúc với mọi đối tượng cũng vừa ý và không phải lúc nào và ở đâu, ý ta tiếp xúc với mọi đối tượng cũng đều thích ứng và vừa ý.
Tiếp xúc mọi đối tượng với tâm vừa ý, thì cảm giác dễ chịu bắt đầu khởi lên trong ta và như vậy là ta bắt đầu có hạnh phúc; tiếp xúc với mọi đối tượng với tâm không vừa ý, thì những cảm giác khó chịu bắt đầu khởi lên trong ta và như vậy là ta bắt đầu có khổ đau.
Khổ đau và hạnh phúc đến với mỗi chúng ta đều tùy thuộc từ các cảm nhận. Cảm nhận vừa ý là cho ta hạnh phúc và cảm nhận không vừa ý là cho ta đau khổ. Và nếu ta sống ở trong trạng thái tâm thức vô cảm, thì ta chẳng có hạnh phúc hay khổ đau gì cả. Sống với trạng thái tâm thức vô cảm, thì ta đang sống mà ta như đã chết. Và một người đang sống mà xem như đã chết, không ai bảo rằng, người ấy là người hạnh phúc cả.
Ta nhìn sâu vào trong tự thân của mỗi chúng ta, ta thấy rằng, phần nhiều ta có khả năng đi tìm cầu hạnh phúc hơn là khả năng tiêu diệt khổ đau. Và phần nhiều chúng ta có khả năng tiêu diệt hạnh phúc hơn là có khả năng tiêu diệt khổ đau. Và mọi phương pháp giáo dục của con người ở trong các xã hội quá khứ và hiện nay cũng đều thúc đẩy con người đi tìm kiếm hạnh phúc hơn là đào tạo con người có khả năng trừ diệt nguyên nhân gây ra đau khổ cho chính họ.
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh. Phương pháp giáo dục hoàn chỉnh là phương pháp giúp cho con người có cách nhìn chính xác đối với bản thân họ; đối với các cảm giác của họ; đối với tâm thức của họ và đối với những gì liên hệ với họ từ bên trong đến bên ngoài, từ bản thân đến gia đình và xã hội, cũng như mọi môi trường sinh hoạt liên hệ từ đời này và đời sau của họ, khiến cho họ có những hiểu biết chính xác về đời sống của chính họ và có khả năng tự bảo vệ cũng như tự thăng hoa đời sống ấy.
Đời sống con người không thể nào có hạnh phúc, khi chính trong đời sống của con người bị nợ nần và bị vây hãm bởi vật chất, bị nợ nần và bị vây hãm bởi tình ái, bị nợ nần và bị vây hãm bởi nghiệp báo.
Khi ta nhìn mọi hình sắc, ta nghe mọi âm thanh, ta ngửi mọi hương thơm, ta nếm mọi mùi vị, ta xúc chạm mọi đối tượng của thân và ý với tâm bận rộn, với tâm bị ràng buộc bởi các nợ nần và bị vây hãm đủ các thứ nợ nần tình ái và nghiệp báo, thì không tài nào ta có được cảm giác dễ chịu, chứ nói gì đến hạnh phúc.
Bị nợ nần và bị vây hãm bởi vật chất, bị nợ nần và bị vây hãm bởi tình ái hay bị nợ nần và bị vây hãm bởi nghiệp báo là kết quả do lòng tham, sự sân hận và tâm tà kiến của mỗi chúng ta đem lại. Lòng tham, sự sân hận và tâm tà kiến là gốc rễ làm cho mọi khổ đau trong đời sống của chúng ta phát sinh, làm cho hạnh phúc trong đời sống của chúng ta không bao giờ hiện hữu.
Mỗi khi chúng ta nỗ lực tạo ra vật chất bởi những tác động của lòng tham, thì càng có vật chất bao nhiêu là chúng ta càng bị rơi vào những tình trạng nô lệ vật chất và càng bị khổ đau bởi chúng bấy nhiêu. Và mỗi khi chúng ta càng nỗ lực tạo ra vật chất bởi tác động của lòng hận thù và tâm tà kiến bao nhiêu, thì chúng ta càng bị trở thành nô lệ vật chất và bị khổ đau bởi vật chất bấy nhiêu.
Mỗi khi chúng ta nỗ lực tạo ra những tình cảm với nhau bởi sự tác động của lòng tham và tâm tà kiến, thì tình cảm của chúng ta, càng ngày càng đầy ắp thất vọng và hận thù, và thất vọng, hận thù sẽ chồng chất lên hận thù và thất vọng. Và bất cứ hành động nào của chúng ta được tác động bởi tâm tham lam và tính ích kỷ, thì chúng đều dẫn chúng ta đi tới nợ nần và nô lệ nghiệp báo khổ đau.
Nô lệ nghiệp báo mới là sự nô lệ đáng kinh hãi nhất. Tại sao? Và nó là sự nô lệ chính xác nhất, do chính tâm thức và hành động của ta tạo ra. Chính do lòng tham, sự sân hận và tâm tà kiến của ta tạo ra. Sự nô lệ ấy dẫn ta đi từ đời này qua kiếp khác trong bóng đêm của thất vọng và khổ đau.
Hạnh phúc thực sự chỉ có mặt với chúng ta, khi chúng ta có một đời sống không bị nợ nần đối với vật chất, không bị nợ nần đối với tình ái và không bị nợ nần với nghiệp báo.
Người không còn mắc bất cứ món nợ nào của vật chất, của tình ái và của nghiệp báo mới là người thực sự có hạnh phúc và tự do.
Nền giáo dục thực tiễn, hiện đại và toàn diện là nền giáo dục, giúp cho chúng ta không phải chỉ biết tháo gỡ những hiện tượng khổ đau và những hình thái sinh hoạt bất ổn của chúng ta, mà phải giúp cho chúng ta một cách nhìn chính xác về khổ đau của con người và phương pháp tháo gỡ nguyên nhân sinh khởi khổ đau ấy nơi mỗi con người chúng ta.
Nền giáo dục ấy, phải biết giúp cho ta tháo gỡ những nợ nần vật chất mà thân thể ta đã vay mượn, phải biết giúp đỡ cho ta tháo gỡ những nợ nần đối với tình ái mà tâm ý ta đã vay mượn và phải biết giúp đỡ cho ta tháo gỡ những nợ nần nghiệp báo do những hành động thiện ác của ta đã vay mượn.
Một nền giáo dục, thực tiễn, hiện đại và toàn diện đối với con người phải là nền giáo dục được thiết lập trên nền tảng của chính kiến. Nghĩa là một nền giáo dục được thiết lập trên nền tảng của sự hiểu biết giữa con người với con người, giữa con người với các vật thể và xã hội qua quan hệ nhân duyên, nhân quả và nghiệp báo, không phải một dạng mà nhiều dạng, không phải một đời mà nhiều đời và trong các sự quan hệ ấy, mỗi người phải tự chịu trách nhiệm về hành vi thiện ác của chính mình, không phải trước quan tòa phán xử luật pháp mà chính trước tòa án nhân quả nghiệp báo của tâm mình.
Nền giáo dục ấy, phải biết dạy cho con người chạm trán với sự thực của khổ đau và hạnh phúc của kiếp người; phải biết dạy cho con người chạm trán được với những gốc rễ khổ đau của kiếp người và những phương pháp làm thay đổi những gốc rễ khổ đau ấy, thành những chất liệu của an lạc và hạnh phúc.
Một nền giáo dục, thực tiễn, hiện đại và toàn diện là nền giáo dục ấy, dạy cho con người phải biết họ là gì trong sự liên hệ giữa họ và nghiệp báo của chính họ, phải dạy cho con người biết họ là gì trong mỗi suy nghĩ, hành động và lời nói của họ, để họ thực sự có khả năng suy nghĩ và duy trì những gì cần thiết cho đời sống tốt đẹp của chính họ và loại bỏ những gì đã cản trở sự bước tới đời sống cao thượng của chính họ.
Một nền giáo dục, thực tiễn, hiện đại và toàn diện là nền giáo dục ấy, dạy cho con người biết đoạn tận những nguyên nhân sinh khởi khổ đau, và những phương pháp diệt tận khổ đau, hơn là chỉ biết trốn chạy khổ đau hay là ôm lấy những nguyên nhân khổ đau mà kiếm tìm hạnh phúc, hay là vẽ ra những bức tranh hạnh phúc chứa đầy những ý niệm tưởng tượng trong tương lai.
Một nền giáo dục, thực tiễn, hiện đại và toàn diện là nền giáo dục ấy, dạy cho con người biết rõ những yếu tố tạo nên hình thể của họ là gì, phải biết những cảm giác đang diễn ra trong họ là gì, khi họ tiếp xúc với mọi đối tượng, ngay cả những đối tượng thuộc về không gian hay tâm thức.
Sở dĩ, con người có quá nhiều khổ đau và thụ động trong cuộc sống, là do con người không có khả năng nhìn lại tâm mình để làm chủ và thanh lọc những gì không cần thiết cho hạnh phúc và nuôi dưỡng những gì cần thiết cho đời sống cao thượng.
Vì vậy, nền giáo dục, thực tiễn, hiện đại và toàn diện không phải chỉ nhắm tới phát triển những kiến thức hay là những hiểu biết thuộc khoa học tự nhiên, mà còn phải biết nhắm tới làm chủ tâm ý trong mọi trạng huống.
Nếu tâm ý của con người bị hỗn loạn, thì con người không có khả năng sử dụng những phát minh của khoa học tự nhiên để phục vụ con người. Và nếu con người không có khả năng làm chủ tâm ý của mình, thì con người trở thành vật nô lệ cho những phát minh khoa học hơn là làm chủ khoa học. Bấy giờ khoa học không phải phục vụ con người mà giết chết con người và môi trường sinh thái của nó.
Mọi phương pháp giáo dục là nhắm tới giúp cho con người, hiểu rõ chính họ và chung quanh họ là gì một cách chính xác mà không phải áp đặt hay ru ngủ.
Tóm lại, một nền giáo dục thực tiễn và toàn diện, nền giáo dục ấy phải hội đủ các yếu tố sau đây:
1 – Nền giáo dục phải giúp cho những đối tượng được giáo dục có cách nhìn chính xác và toàn diện đối với mọi vấn đề không phải chỉ ở trong một khoảng không gian mà cả mọi không gian và không phải chỉ ở trong một giai đoạn mà xuyên suốt mọi thời gian và không phải chỉ một đối tượng mà hết thảy vạn hữu.
2 – Nền giáo dục phải giúp cho mọi đối tượng được giáo dục có cách suy tư chính xác và toàn diện đối với một vấn đề hay mọi vấn đề, trước khi phát ngôn hay hành động. Không phát ngôn và hành động theo những gì mà những suy tư của mình chưa chính xác đối với một vấn đề có liên hệ đến nhiều không gian, nhiều thời gian và nhiều đối tượng.
3 – Nền giáo dục phải giúp cho mọi đối tượng được giáo dục có một cách phát ngôn chính xác. Cách phát ngôn ấy, không đứng trên những lập trường, quan điểm hay thành kiến mà đứng từ nơi cái thấy, cái biết và cái suy tư chính xác về sự thật đang liên hệ đến con người cũng như môi trường sinh hoạt và tồn tại của nó.
4 – Nền giáo dục phải giúp cho mọi đối tượng được giáo dục có hành động hợp lý và chính xác. Hành động hợp lý là hành động không gây thiệt hại cho người để mình được lợi và cũng không để cho mình bị thiệt hại trước những mưu lợi của người khác. Hành động hợp lý là hành động không phải chỉ biết đem lại cái lợi cho mình và người trong nhất thời mà xuyên suốt cả mọi thời gian, không phải chỉ biết đem cái lợi cho mình và cho người trong một điểm mà toàn thể. Và hành động chính xác là hành động không viển vông và mơ hồ. Hành động chính xác là hành động có khả năng làm dẫn sinh những kết quả tất yếu, như chính nó đã hành động qua cái thấy và cái suy tư chính xác.
5 – Nền giáo dục phải giúp cho mọi đối tượng được giáo dục nuôi dưỡng đời sống của họ một cách hợp lý giữa cung và cầu. Cung và cầu không hợp lý sẽ dẫn sinh những tệ hại cho thân và tâm, và sẽ phát sinh những tệ nạn khác của xã hội.
6 – Nền giáo dục phải giúp cho mọi đối tượng được giáo dục phát triển những khả năng hợp lý. Phát triển khả năng hợp lý là phát triển khả năng đem lại những hạnh phúc và an lạc cho cả thân và tâm của chính họ. Thân phát triển hạnh phúc mà tâm không phát triển hay ngược lại đều là sự phát triển không hợp lý. Sự phát triển khả năng của thân và tâm không hợp lý sẽ dẫn đến một đời sống bị thân bệnh hoặc tâm bệnh. Và mỗi khi thân bệnh cũng chính là tâm bệnh và ngược lại.
7 – Nền giáo dục phải giúp cho mọi đối tượng được giáo dục cần có những sự nhớ nghĩ hợp lý. Nhớ nghĩ hợp lý là luôn nhớ nghĩ đến sự có mặt thân và tâm của con người; nhớ nghĩ đến sự phát triển và sự hủy diệt của thân và tâm con người; nhớ nghĩ đến sự nuôi dưỡng thân và tâm của con người, qua các sự tiếp xúc liên hệ đến môi trường sinh thái của thân và tâm, đồng thời biết rõ những gì đang liên hệ làm sinh khởi những cảm giác và tri giác hợp lý hay không hợp lý đối với thân tâm, trong quá trình thăng hoa ý nghĩa của cuộc sống. Những cảm giác và tri giác hợp lý là những cảm giác, tri giác không đưa đến sự tàn hoại đối với thân và tâm không phải chỉ trong hiện tiền mà còn cả dài lâu về sau. Ghi nhớ hợp lý là ghi nhớ lịch sử phát triển thân và tâm của con người và thế giới của nó, qua những tác nhân và tác duyên trong cả một dòng chảy của nhân duyên vô tận và trong dòng chảy của nhân duyên ấy, nhân duyên của con người và thế giới của nó có thể thay đổi hoặc xấu hoặc tốt.
8 – Nền giáo dục phải giúp cho mọi đối tượng được giáo dục cần có một tâm hồn định tĩnh và sâu lắng hợp lý. Tâm là chủ của thân. Tâm không yên thì mọi sinh hoạt của thân đều bị rối loạn. Tâm của con người càng định tĩnh bao nhiêu, thì những hành động của họ càng chính chắn và ít sai lầm bấy nhiêu. Suy nghĩ, phát ngôn và hành động của con người ít sai lầm hoặc không sai lầm, sẽ tạo nên một xã hội loài người văn minh. Một xã hội loài người chỉ thực sự văn minh, khi nào xã hội ấy, biết thiết lập một nền giáo dục con người hoàn thiện cả hai mặt thân và tâm cùng với những gì liên hệ đối với chúng.
Một nền giáo dục có nội dung đầy đủ tám yếu tố như vậy là một nền giáo dục thực tiễn và toàn diện. Nếu thiếu, không hội đủ tám yếu tố ấy, sẽ không đáp ứng được nhu cầu hạnh phúc của con người và nếu vượt quá tám yếu tố ấy sẽ làm cho đời sống con người bị đi hổng chân và sẽ bị ngã quỵ trước khi bình minh xuất hiện.
Một nền giáo dục biết áp dụng và điều hợp tám yếu tố ấy một cách linh động và thực tiễn, thì hạnh phúc và an lạc không phải đến với thế giới con người từ những hứa hẹn hay ước mơ, mà chính là từ cuộc sống mang tính giáo dục nhân quả dung hợp và chuyển hóa một cách hiện thực và sống động.
Và một nền giáo dục như vậy, làm phát sinh ý thức tự trách nhiệm về hành vi nhân quả thiện ác đối với cá nhân và cộng đồng; làm dẫn sinh khả năng tự tín và sáng tạo nơi chính những đối tượng được giáo dục. Và xã hội loài người chúng ta thực sự chỉ có văn minh, khi nào nền giáo dục của chúng ta, biết khởi động và chuyển hóa từ cách nhìn nhân duyên, nhân quả một cách sinh động này.
Một sự kiện xấu xảy ra cho ta, không phải ta chỉ biết chấp nhận và khắc phục hậu quả, mà còn phải biết khắc phục và chuyển hóa từ nhân duyên tập khởi của chúng. Không những vậy, mà ta còn phải biết tập hợp và liên kết những nhân duyên tốt đẹp, khiến cho chúng tự dung hợp, chuyển hóa và biểu hiện một cách đầy sáng tạo.
Trong đời sống con người có nhiều bất an và khổ đau, vì tâm thức con người tích lũy và hiện khởi nhiều hạt giống bất thiện. Những hạt giống bất thiện nơi tâm, mới chính là nguyên nhân sinh khởi những kết quả khổ đau cho con người và xã hội của nó.
Và vì vậy, một khi con người không tin và hiểu về nhân quả để hành động là con người đã đánh mất ý thức tự giác và tự chủ, cuộc sống của chính họ tự nó rối loạn và xã hội nhiều người hành động không đi từ niềm tin và hiểu biết về nhân duyên, nhân quả thì hạnh phúc và an lạc chỉ là những ước mơ hão huyền mà những hỗn loạn xã hội là những điều tất yếu.
Do đó, nền giáo dục thiết lập trên nền tảng hiểu biết sự liên hệ giữa nhân duyên, nhân quả của cá nhân và cộng đồng không phải trong một thời gian mà mọi thời gian, và không phải trong một không gian mà mọi không gian là hết sức cần thiết cho đời sống hòa bình, an lạc và văn minh của chúng ta, khiến tự nó có khả năng vãn hồi trật tự và hoàn thiện cho xã hội của chúng ta ngày nay.
___________________________________________
Phát triển văn hóa,
giáo dục Phật giáo
trong thời đại ngày nay
Thích Nguyên Siêu
Văn hóa và giáo dục Phật giáo là phương tiện để ươm mầm và nuôi dưỡng hạt giống bồ đề tâm trong từng cá thể xã hội. Khi những hạt mầm lớn lên sẽ là những con người đi vào cuộc đời bằng tâm bồ đề, bằng trí giác ngộ, bằng trái tim từ bi để không những thắp sáng lý tưởng cao cả của Phật Đạo, mà còn là những nhân tố hữu ích để góp phần xây dựng và phát triển xã hội.
Xã hội nhân loại hiện nay đang sống trong thời đại mà mọi lĩnh vực hoạt động đều không thể nào tách ra khỏi những mối tương quan tương duyên trùng trùng lẫn nhau từ bình diện cá nhân, tập thể và xã hội cho đến quốc gia và quốc tế. Chính vì thế mà sự kiện “toàn cầu hóa” đã được khởi sinh và ngày càng phổ quát.
Ngày nay, dù là hoạt động trong lĩnh vực tôn giáo, như việc hoằng pháp độ sinh, thì cũng không thể nào tách khỏi ra được mối tương quan tương duyên với nhiều lĩnh vực hoạt động khác như cơ cấu chính trị của xã hội, tình trạng giáo dục và bối cảnh văn hóa của con người, mức độ phát triển hay lạc hậu về kinh tế của xã hội, điều kiện an ninh về mặt xã hội và quốc phòng của đất nước sở tại, v.v…
Vì thế, phát triển văn hóa, giáo dục Phật giáo không chỉ là “làm văn hóa, giáo dục thuần túy” mang ý nghĩa rằng chỉ biết làm văn hóa, làm giáo dục và bỏ mặc mọi tình huống thống khổ của nhân sinh, xã hội. Đó không phải là nội dung của văn hóa và giáo dục Phật giáo.
Làm văn hóa và giáo dục trong tinh thần đạo Phật là thực hiện sứ mệnh hoằng dương Chính pháp để cứu độ quần sinh. Điều ấy có nghĩa là chính văn hóa và giáo dục tự nó phải cưu mang đầy đủ nội dung của giác ngộ và giải thoát. Chính vì thế, làm văn hóa và giáo dục là sứ mệnh, là trách nhiệm trọng đại mà mỗi Tăng, Ni và Phật tử đều phải thi thiết. Như vậy văn hóa và giáo dục Phật Giáo là phương tiện để khai mở trí tuệ giác ngộ và giải thoát, đồng thời trang trải đức từ bi bao la trong mọi trái tim của con người.
Hay nói cách khác, văn hóa và giáo dục Phật giáo là phương tiện để ươm mầm và nuôi dưỡng hạt giống bồ đề tâm trong từng cá thể xã hội. Khi những hạt mầm lớn lên sẽ là những con người đi vào cuộc đời bằng tâm bồ đề, bằng trí giác ngộ, bằng trái tim từ bi để không những thắp sáng lý tưởng cao cả của Phật Đạo, mà còn là những nhân tố hữu ích để góp phần xây dựng và phát triển xã hội. Trong ý nghĩa vừa nêu trên, văn hóa và giáo dục Phật giáo cưu mang khả tính khai phóng tâm trí của nhân sinh để nhận thức được giá trị nhân bản, giá trị làm người hướng đến mục tiêu cao thượng. Đó cũng chính là nền tảng cho những giá trị phổ quát mà nhân loại hiện nay đang nỗ lực phát huy như tự do, dân chủ và nhân quyền. Như thế, làm văn hóa và giáo dục đúng nghĩa của đạo Phật chính là thực hiện sứ mệnh hoằng truyền Chính Pháp và mang lại lợi lạc lâu dài để cải thiện xã hội, chuyển hóa nhân sinh, xây dựng cộng đồng và phát triển đất nước.
Xã hội Việt Nam gần đây với chính sách mở cửa đi vào con đường kinh tế thị trường, nhưng nền tảng xã hội đã bị suy yếu, các giá trị văn hóa, tôn giáo, đạo đức tâm linh đã bị phá sản, cho nên càng mở cửa lại càng dẫn vào tình trạng hỗn loạn, nhiễu nhương về mặt đạo đức xã hội! Trước thực trạng ấy của xã hội và đất nước, công tác văn hóa và giáo dục Phật giáo trong tinh thần trí tuệ, khai phóng, tự do, từ bi, nhân bản và nhân quyền là những nhu cầu cần thiết và cấp bách. Chính đây là phương thức kiến hiệu nhất chấn hưng nền tảng đạo đức xã hội.
Hơn nữa, thực tế xã hội Việt Nam ngày nay, số lượng tuổi trẻ sinh sau năm 1975 đã chiếm đến khoảng 60% dân số cả nước. Với một khối lượng thanh thiếu niên to lớn như vậy, vai trò giáo dục phải được đặt lên hàng đầu. Đặc biệt là Phật Giáo Việt Nam cần phải nhận định thật sáng suốt trách nhiệm của mình trước tiền đồ của dân tộc và đạo pháp mà thế hệ trẻ là thành phần chủ lực. Phật Giáo Việt Nam nếu không gánh vác trách nhiệm giáo dục cho thế hệ trẻ hôm nay thì cũng đồng nghĩa là tự mình đóng kín cánh cửa đi vào tương lai. Công tác giáo dục phải được thực hiện theo đúng chức năng và nội hàm của nó.
Công tác văn hóa và giáo dục đúng nghĩa, thực hiện đúng chức năng là chất lượng tinh ròng và thuần khiết để giữ gìn giềng mối tổ tiên, lý tưởng cao cả của tiền nhân và con đường sáng chói của Đạo Pháp qua suốt hai ngàn năm lịch sử. Chủ nghĩa rồi cũng suy tàn, thể chế chính trị rồi cũng đổi thay, nhưng tri kiến và tâm huyết sắt son đối với đạo pháp và dân tộc do công tác văn hóa và giáo dục trưởng dưỡng sẽ còn được truyền thừa mãi đến ngàn sau.
___________________________________________
Hoằng pháp đối với tuổi trẻ,
một vài suy nghĩ
Giới Hảo
Có người đã nói với chúng tôi rằng, nếu đức Phật còn sống cho đến hôm nay, ngài sẽ nói chuyện như thế nào trong các trường đại học, các viện nghiên cứu khoa học, và trước đông đảo quần chúng tri thức hiện nay? Ngài sẽ nói như thế nào cho phù hợp với giới trẻ tuổi ngày nay nhằm giúp họ học hiểu và hành trì giáo lý để thực sự có lợi ích? Chúng tôi đã nói rằng đó là một ưu tư cần phải đặt ra, nhưng công việc của đức phật đã hoàn tất từ lâu, và bây giờ ngài vẫn đang tiếp tục, sự tiếp tục đang diễn ra bởi những đệ tử của ngài, những người hoằng pháp, đi theo gót chân đức Phật để chuyển tải đạo lý vào cuộc đời nhằm dựng lại những gì đã đổ vỡ, xiêu vẹo, bật đèn trong đêm tối và làm cho cuộc đời tươi đẹp hơn, đúng như bản hoài của Ngài. Người đặt vấn đề đó đang có một ưu tư về vấn đề làm thế nào để giáo lý đức phật thực sự có ảnh hưởng đến nhận thức của giới trí thức, những người trẻ tuổi hôm nay. Bởi không ai không biết rằng chính tuổi trẻ là tương lai của một dân tộc nói riêng và của toàn thế giới nói chung. Họ là những người đang và sẽ gánh vác vận mệnh của đất nước, của thế giới trong hiện tại và tương lai.
Chúng ta biết rằng nhận thức của con người đã trở nên tiến bộ và khác hơn ngày xưa rất nhiều nhờ sự tiến bộ về tư tưởng, khoa học, triết học và xã hội học. Trong sự tiến bộ chung ấy nhận thức về tôn giáo của con người cũng thay đổi theo chiều hướng tiến bộ. Mà tôn giáo là cần thiết cho con người. Vì vậy chúng ta phải có bổn phận thúc đẩy sự tiến bộ của con người về nhận thức tôn giáo, khiến cho tôn giáo luôn giữ được vai trò nuôi dưỡng và phát triển tâm linh của con người và đừng bao giờ trở nên những chướng ngại, những thành kiến cố chấp và cuồng tín, cản trở sự tiến bộ và giải phóng con người toàn diện.
Tuy nhiên cho dù nhận thức của con người về tôn giáo có thay đổi thế nào đi nữa, những nguyên lý của Phật học cũng không bao giờ thay đổi. Chúng ta quyết chắc như vậy, vì những nguyên lý ấy cũng chính là những nguyên lý thường hằng của vũ trụ vạn hữu. Pháp ấy dù đức phật có nói hay không nói nó vẫn luôn có đó. Đức phật nói ra là bởi sự giác ngộ của Ngài và vì lòng thương xót chúng sanh nên nói ra để thay đổi những nhận thức sai lầm của chúng sanh. Chính những sự sai lầm trong nhận thức về cuộc đời đã làm cho chúng ta đau khổ. Đời là vô thường mà chúng ta cho là thường, đời là vô ngã mà chúng ta cho là có ngã, nên sinh tâm tham nhiễm, vướng mắc và bị trói buộc. Những nguyên lý hằng hữu ấy kinh Pháp Hoa nói:
“Thị pháp trụ pháp vị
Thế gian tướng thường trú”
Pháp trụ ấy, pháp vị ấy luôn luôn thường trú trong các pháp thế gian. Những pháp như vô thường, vô ngã, vô tướng, duyên sinh, nhất thừa thật tướng, là những thuộc tính của pháp thế gian. Nhìn sâu vào trong lòng của sự vật với con mắt quán chiếu, chúng ta có thể thấy được nó. Một kinh khác đức Phật lại nói, “người nào thấy được tính Không tướng của các tướng tức là thấy được như lai.” (Kinh Kim Cương). Nói như thế để thấy rằng những nguyên lý Phật học không bao giờ thay đổi cho dù mọi thứ có thể thay đổi. Vấn đề là chúng ta làm sao để trình bày những giáo lý ấy cho phù hợp với nhận thức của con người hiện đại.
Đức tin là nền tảng của mọi sự thành công trong đời. Mất niềm tin có nghĩa là mất đi cả ý nghĩa sống. Sống có nghĩa là tin vào một cái gì đó để phấn đấu và tiếp tục sống. Sống chứ không phải chỉ là tồn tại. Nhưng niềm tin ấy sẽ hướng dẫn con người ta sống như thế nào, vô nghĩa hay đầy ý nghĩa, lương thiện hướng thượng hay tàn ác và xuống dốc. Hoằng pháp với tuổi trẻ phải hướng dẫn cho họ một lối sống có niềm tin và hướng thượng. Giúp cho họ thấy được tính nhân bản và tự chủ của chính họ mà không phải do ai áp đặt hay bắt buộc. Mọi thứ đều để cho họ tự nhận thức và quyết định lấy.
Chẳng hạn khi nói về Vô thường và sự thật về khổ của cuộc đời, ngày xưa đã có nhiều nhầm lẫn ở điểm này và cho rằng đạo Phật là bi quan, yếm thế. “Đời là vô thường nên tôi chẳng muốn làm gì hết, làm có đó rồi cũng mất đi thôi thì làm để làm gì”; khi nói đời là bể khổ mênh mông không bờ bến, thì người ta mất luôn niềm tin yêu đối với cuộc sống. Thành kiến này vẫn còn lưu dấu khá đậm vào thời đại chúng ta. Những tác phẩm văn học cũng đã tiếp tay cho nhận thức này của con người về Phật giáo (hẳn chúng ta cũng sẽ vận dụng lĩnh vực văn học để sửa lại nhận thức sai lầm này, té ở đâu thì chống ở đó để đứng dậy). Người ta đâu để ý một khía cạnh thực tế và rất khoa học của tính chất Vô thường. Không có vô thường thì thực sự không thể quan niệm thế nào là sự sống. Hạt lúa mới gieo xuống ruộng ngày hôm qua, hôm nay đã nảy mầm và rồi với những điều kiện đầy đủ nó sẽ cho những hạt thóc lúa trong ngày mai. Không có sự thực về Vô thường thì không có tiến trình vận động đó. Niềm khổ đau của tôi hôm nay đang có mặt đó, tôi biết, nhưng không hề tuyệt vọng bởi nó sẽ ra đi, vô thường mà. Như vậy đâu phải do sự thực vô thường làm cho người ta khổ mà chính do sự chấp chặt của chúng ta. Nhận thức về vô thường sẽ cho ta một niềm tin rất tích cực vào sự biến chuyển của cuộc sống.
Khi trình bày những giáo lý như thế cho giới trẻ, chúng ta có thể sử dụng những phương tiện về tri thức khoa học để giải thích nhằm tạo ra niềm tin đúng đắn phù hợp với tri thức thời đại[1], nhưng cũng chú ý để đừng quá sa đà diễn giải mà thành ra chỉ tôn thêm vẻ hào nhoáng của khoa học kỹ thuật. Khoa học kỹ thuật luôn có sự hạn chế nhất định của nó, nó chỉ là tương đối. Trong sự trình bày đó, luôn phải để ý đến khía cạnh thực tế của đời sống. Mục đích của đạo Phật là nhằm giải thoát chứ chẳng phải là trói buộc con người vào những hý luận vô bổ.
Bây giờ, chúng ta nói đến khía cạnh khổ đau của Phật giáo. Đạo Phật nói về khổ đau như một chân lý hiển nhiên của cuộc đời. Bài thuyết pháp đầu tiên đức Phật nói ngay đến vấn đề khổ đau. Đó là một sự thực nên chúng ta không thể không nói đến. Nó đúng cho tất cả mọi thời. Không phải chỉ đúng với ngày xưa còn hôm nay, xã hội phát triển nên, nó không còn đúng nữa. Nếu mở mắt ra chúng ta có thể thấy xã hội ngày nay cũng đầy dẫy những khổ đau và thậm chí còn nặng nề hơn nữa là khác. Nhưng chúng ta phải nói cách nào để đánh thức dậy ý thức của giới trẻ về khổ đau. Đó là bổn phận của người hoằng pháp. Người trẻ ngày nay sự thực đang ngủ mê và đi theo tiếng gọi của sự phát triển và hào nhoáng của khoa học kỹ thuật. Họ cần có một sự trợ giúp.
Theo tôi, ý thức về khổ đau là vấn đề quan trọng, từ đó có thể bàn đến những vấn đề khác thuộc về cá nhân và xã hội. Phải thấy được bệnh trạng, thấy được sự nguy hiểm của những nguyên do khổ đau thì mới có ý thức giải thoát khổ đau một cách hữu hiệu, chứ không phải là sự chạy trốn trong cơn mê ngủ. Ý thức về khổ đau và hạnh phúc của chính mình cũng là nền tảng để nói đến việc bảo vệ hạnh phúc của kẻ khác đồng thời giúp người bớt khổ.
Chúng ta quằn quại trong đau khổ, hốt hoảng như ở trong ngôi nhà đang cháy, chịu đựng nhiều sự bức bách và não loạn không phút ngơi nghỉ. Đạo Phật không chịu đi vào huyền đàm, hý luận những vấn đề siêu thực mà luôn ý thức quay trở lại nhận diện và giải quyết những vấn đề thực tiễn trước mắt đang làm cho con người điêu đứng. Mũi tên độc phải được nhổ ra để băng bít và chữa lành vết thương chứ không ngồi đó truy tìm những nguyên nhân, những động cơ của kẻ bắn mũi tên. Phải nhận diện cho được cái khổ đau của mình và của nhân loại. Đó là phương châm hành động hữu hiệu và thực tiễn nhất. Nếu không biết ta đang mắc bệnh gì thì làm sao có thể nói đến việc chữa lành? Có thể nói rằng lý tưởng giải thoát phải được nuôi dưỡng bằng ý thức về khổ đau. Bởi vì rõ ràng nói đến giải thoát thì phải giải thoát đối với cái gì. Khi chúng ta còn thấy được nỗi khổ niềm đau của mình và của người khác thì chúng ta còn có ý hướng muốn thoát khỏi những kiềm tỏa, thiêu đốt.
Ý thức về khổ đau luôn gây cho chúng ta có một xót xa trong nội tâm. Đây cũng là một điều cần thiết để nói đến các vấn đề luân lý đạo đức của con người. Bao giờ anh không còn thấy xót xa trước nỗi đau của mình cũng như của người khác, bấy giờ luân lý đạo đức không còn được đặt ra nữa và như vậy cuộc sống loài người sẽ như thế nào?. “Nếu chúng ta có thể tăng cường khả năng sự nhạy cảm trước nỗi đau của người khác, thì càng nâng cao, ta lại càng ít chịu đựng được khi nhìn thấy nỗi đau của người khác và càng chú trọng bảo đảm mọi hành động không tác hại con người” (đức Đạt – lai – la – ma, Đạo Lý Thiên Niên Kỷ).
Vì thế, chúng ta không ngại nói đến vấn đề khổ đau đối với người trẻ, nhưng cũng phải khéo léo để họ có thể chấp nhận được một cách tích cực, và đặc biệt là để thức tỉnh. Chẳng hạn chúng ta nói về năm giới quý báu của người Phật tử có thể nói rằng nó có giá trị luân lý vượt thời gian.
Giới luật của Phật là sự tự hạn chế các động cơ và tham vọng tác hại. Nó có thể làm phát triển và bồi dưỡng cho đức từ bi, nhằm bảo vệ hạnh phúc con người, đưa con người đến giải thoát thực sự. Năm giới của người phật tử được xây dựng trên ý thức về khổ đau của đời người. Ngày xưa, có lẽ vì để cho dễ nhớ, và vì sự hạn chế về phương tiện chuyển tải văn bản mà năm giới chỉ được trình bày ngắn gọn bắt đầu với chữ “không” (không sát sanh, không nói láo, không trộm cắp, không tà dâm, không uống rượu). Nói như thế có thể người ta nghĩ rằng đó là những bắt buộc, áp đặt đối với tín đồ. Chúng ta có thể trình bày khác đi một chút về hình thức với sự tham gia của nhận thức của người nghe, người đọc chứ không thuần túy là những điều cấm kỵ. Chúng ta có thể nói, vì ý thức được những khổ đau do sự sát sanh, không tôn trọng mạng sống của con người và vạn vật diễn ra chung quanh, trong xã hội tôi và trên thế giới mang lại… Nên tôi phát nguyện không sát hại sinh mạng của bất cứ ai, nguyện tôn trọng và bảo vệ sự sống, bảo vệ các loài sinh vật và môi trường… Hay về giới Không được uống rượu, chúng ta cũng có thể nói, vì ý thức về những khổ đau do uống rượu, các chất ma túy và các chất gây say nghiện gây ra cho tôi cũng như cho gia đình và xã hội, tôi nguyện không uống rượu và tiêu thụ các chất độc tố cho cơ thể, ý thức về những tiêu thụ của bản thân sao cho lành mạnh vân vân.
Ý thức có nghĩa là thức tỉnh, mở con mắt ra để nhìn thực trạng của gia đình và xã hội. Năm giới có thể là bài học suốt đời nhằm nuôi dưỡng và phát triển hạnh phúc của xã hội và gia đình. Cũng đề tài cũ kỹ ấy nhưng cách trình bày phải mới để thích nghi với nhận thức của mọi người, đặc biệt là giới trẻ[2].
Trình bày giáo lý về duyên sinh, vô ngã, vô thường trong thời đại này là cần thiết để người ta có thể hiểu được mối liên hệ giữa mình với thế giới chung quanh. Vạn vật đều sống trong mối tương quan tùy thuộc vào nhau. Không có một ai, một sự vật gì tồn tại độc lập. Hạnh phúc, khổ đau, tình yêu, lý tưởng đều nằm trong mối tương quan nhân duyên ấy. Trong giáo lý tương tức, cái này có tùy thuộc vào cái kia, hạnh phúc và khổ đau không phải là vấn đề của riêng ai, nó là vấn đề của toàn thể mọi người, luôn có sự liên hệ giữa mình với người khác, với cả những lá cây ngọn cỏ. Từ đó nói đến vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái, môi trường xã hội, những vấn đề hết sức nóng bỏng của thời đại.
Xây dựng một môi trường tốt trong đó có mình đang sống. Cũng trong mối liên hệ, chúng ta nói đến các vấn đề đạo đức trong gia đình với cha mẹ, những người thân trong quan hệ huyết thống. Nói đến mối quan hệ trong học đường với thầy, bạn, nói đến mối quan hệ xã hội. Và nói đến mối quan hệ trong tôn giáo, là mối quan hệ trong quan hệ của gia đình tâm linh. Con người luôn có gốc rễ của mình trong nhiều mối quan hệ mà chúng ta có thể thấy rõ nhất là mối quan hệ trong gia đình huyết thống và gia đình tâm linh. Thân hợp thể năm uẩn của mỗi người đều là sự kế thừa đầy đủ của hai dòng sống tương tục đó. Đạo phật đã đi vào trong lòng dân tộc, và đã làm cho dân tộc ta trở nên một dân tộc thuần từ văn minh, có thủy có chung, có nhân có hậu. Vì thế, giáo dục cho người trẻ học tập và tìm hiểu về lịch sử của dân tộc Việt Nam cũng như lịch sử của Phật giáo Việt Nam là để chuẩn bị cho họ đầy đủ tư lương để đi vào tương lai. Nếu mất gốc rễ của mình trong hai dòng sống đó, con người chẳng có cơ hội nào để sống cho lành mạnh được. Cần thiết cho giới trẻ là ý thức được mình trong cội nguồn của mình để từ đó tiếp nhận những sinh lực cho đời sống của mình.
Nói với người trẻ phải nói tới lý tưởng, tình yêu, sự nghiệp. Tất cả những điều này đều phải nói trong những mối liên hệ, đúng như bản chất của nó; và chúng ta có thể hướng dẫn cho người trẻ trong chiều hướng tích cực.
Người trẻ thường sống và chăm lo cho tương lai. Họ luôn có một mục đích để vươn tới trong tương lai, họ đặt hoàn toàn niềm tin ở tương lai. Điều này cho họ có một sức phấn đấu mạnh mẽ. Tuy nhiên tương lai luôn phải được đặt nền tảng ở hiện tại, phải có gốc rễ trong đời sống hiện tại. Tất cả chỉ được thực hiện ở đây và bây giờ. Đôi khi người ta chỉ biết đầu tư cho tương lai, quần quật làm việc và dần dà trở thành kẻ nô lệ cho công việc lúc nào chẳng hay. Họ cho công việc là cứu cánh, làm ra tiền và chạy theo đồng tiền. Nhịp điệu của cuộc sống hiện đại có thể cuốn mất niềm an vui mà họ đang có. Công việc và máy móc do con người tạo ra để thực hiện công việc không gì khác hơn chỉ là phương tiện của sự sống, nhưng vô tình con người đã trở thành kẻ nô lệ cho công việc và máy móc.
Thiền tập trong đời sống hàng ngày có thể giúp cho người trẻ biết dừng lại và ý thức đời sống của chính mình. Thiền tập không chỉ đem lại cho con người những bình an, làm thư giãn trong nhịp điệu căng thẳng của đời thường, nó còn hướng dẫn con người sống một đời sống hướng thượng. Sự dừng lại và thực tập lắng sâu để có thể nhìn sâu hơn trong những mối tương quan, chia sẻ những niềm vui trong đời sống thực tập, áp dụng những phương pháp tháo gỡ những khó khăn trong đời sống gia đình. Chúng ta phải thực hành và tìm ra những phương pháp hữu hiệu để người trẻ có thể thực hiện Phật pháp, thực hiện Thiền tập trong chính những công tác hàng ngày của họ. Không nên nói đến những giáo lý và tư tưởng Thiền học chỉ có tính cách bàn suông. Điều này có thể làm mất thời gian và làm cho nhiều người nhàm chán, bởi họ không thấy được tính chất thực tiễn của giáo lý. Trong khi đức Phật đã từng dạy cho mọi người rằng, pháp của ngài là đến để mà thấy và thể nhập, thực chứng nó, thấy được nó có thực sự ích lợi cho đời sống của người thực hành. Ai thực hành một ngày thì có hạnh phúc một ngày, một giờ thì có hạnh phúc một giờ. Đó là “Hiện pháp lạc trú”.
Người trẻ cũng có nhiều hạng người có những quan niệm khác nhau. Họ vẫn có những vấn đề tôn giáo cổ sơ[3] và thậm chí có những mê tín. Họ tin Phật như là vị thần ban phước giáng họa và đến chùa chỉ để lễ lạy cầu xin. Chúng ta không thể nói một cách giống nhau trong mọi trường hợp. Có thể dùng phương tiện đáp ứng những vấn đề tôn giáo của họ rồi dần dà hướng dẫn cho họ đức tin chánh tín. Chỉ có niềm tin chân chánh trong phật pháp mới có thể giúp họ được trong đời sống và mới giữ được niềm tin của họ đối với Phật pháp. Khuyến khích người trẻ đọc và học những sách vở về Phật học nhằm phát triển trí tuệ và bồi dưỡng cho đời sống tâm linh. Trong Phật học có đầy đủ mọi phương diện để rèn luyện tâm tánh cũng như rèn luyện thể chất. Giúp cho người trẻ tiếp cận được với các nhà Phật học có uy tín, các bậc chân tu trong nước cũng như trên thế giới trong việc phát triển trí tuệ và tâm linh. Học thế học và cũng đồng thời phải học thêm về Phật học để có một sự phát triển toàn diện về nhân cách và tri thức. Con người học Phật luôn luôn chứng tỏ là người biết đi cùng và đi trước thời đại, thích nghi sống hài hòa mà không bao giờ bị đồng hóa, đi trước mà không bị ảo tưởng.
Còn một điều nữa có thể ảnh hưởng khá mạnh mẽ đối với giới trẻ đó là văn hóa nghệ thuật. “Văn dĩ tải đạo”, những tác phẩm văn học, những áng thơ, những khúc nhạc,… đều có thể làm cho người trẻ có nhiều cảm tình chân thành với đạo pháp. Trong các bài giảng có nhiều tính chất văn học, có thể có nhiều thu hút người nghe hơn những bài chỉ nói những giáo lý khô khan. Có thể lấy những áng thơ văn của người đời để làm giàu thêm cho bài giảng. Thậm chí chúng ta cũng dùng đến những khúc nhạc có thể chuyển tải được giáo lý và hát lên khi cần thay đổi không khí. Khi họ thích những áng thơ văn đó, cùng với sự dẫn dắt khéo léo của người thuyết giảng, chúng ta có thể đưa họ thâm nhập giáo lý một cách dễ dàng. Họ không còn thấy Phật pháp là cái gì khó nuốt mà là rất sống động và thực sự có niềm vui khi đi nghe pháp.
“Tất cả thế gian pháp đều là Phật pháp”, chúng ta cần để ý đến câu kinh ấy để áp dụng trong công tác hoằng pháp của mình. Tóm lại ở đề tài này, chúng tôi chỉ trình bày những nhận thức của mình về vấn đề hoằng pháp với tuổi trẻ. Điểm qua một số nguyên lý Phật học, những vấn đề đã có sẵn trong giáo lý của đức Phật, vấn đề là làm sao chuyển tải nó cho phù hợp với nhận thức của lớp người trẻ tuổi, tương lai của dân tộc và của thế giới ngày mai, nhằm làm cho Phật pháp không bị lu mờ trong đời sống con người. Chúng ta có thể nói đến ý tưởng hiện đại hóa Phật giáo cũng được, bởi vì thời đại mới, nhận thức mới, thì cũng cần có sự canh tân trong vấn đề trình bày giáo lý, không có gì sai, cốt yếu là không mất đi cái tinh ba của Phật học. Đạo Phật vẫn là chiếc bè cần thiết khi đời sống con người còn nhiều khổ đau. Và trách nhiệm nặng nề vẫn đang còn đó đối với những người hoằng pháp.
[1] xem thêm Đạo Của Vật Lý, F. Capra, Nguyễn Tường Bách biên dịch, nxb Trẻ 2001.
[2] UNESCO trong Tuyên Cáo Năm 2000 đã nêu lên sáu điểm mà nếu so với năm giới của người phật tử thì chẳng khác là bao. Cốt lõi nằm gọn trong năm giới đó, nên tham khảo thêm.[3] Một loại tôn giáo chỉ mang nặng hình thức cầu nguyện trước những uy quyền của Thần linh và Thượng Đế.
___________________________________________
Tuổi Trẻ và Vấn Đề Bộ Phái
Nguyên Giác Phan Tấn Hải
Một trong những suy nghĩ lớn của tuổi trẻ khi khởi sự học Phật là vấn đề bộ phái. Những câu hỏi bật lên trong đầu của người học Phật: Nên đến tu học ở chùa nào? Nên tu học theo quý Thầy Nam Tông, Bắc Tông hay Phật Giáo Tây Tạng? Nên đọc kinh điển theo tông phái nào? Và các câu hỏi tương tự cũng làm quý phụ huynh suy nghĩ: nên đưa con mình tới chùa nào, tìm mua kinh sách nào cho con…
Nhiều thập niên trước, các suy nghĩ về bộ phái không gay gắt, đặc biệt là tại Việt Nam. Thường, tuổi trẻ học Phật là từ cơ duyên gia đình, khi ba mẹ dẫn tới chùa, khi gặp những kinh sách có sẵn trong tủ sách gia đình, hay khi gần gũi các ngôi chùa hay chư tăng trong khu phố, trong làng xã. Chỉ tới khi vào Đại học, những chân trời mở rộng, đọc nhiều kinh sách hơn, và lựa chọn hiện ra trước mắt, khi bắt đầu dấn thân tu học.
Nhưng đó là thời chưa có Internet. Bây giờ, lựa chọn hiện ra trước mắt, khi mở máy tính, khi mở điện thoại tinh khôn, tất cả các phân biệt hiện ra nơi đầu ngón tay. Các tông phái lớn nguyên khởi xuất phát từ các hệ thống kinh điển dị biệt. Đức Đạt Lai Lạt Ma trong tác phẩm biên khảo “Buddhism: One Teacher, Many Traditions”[1] phân biệt làm 3 truyền thống: truyền thống Pali (Pali tradition), Sanskrit (Sanskrit tradition), và Nalanda (Nalanda tradition) – trong khi hai truyền thống đầu được dịch ra nhiều ngôn ngữ hiện nay, duy truyền thống từ Đại Học Nalanda khi trở thành Phật Giáo Tây Tạng, còn gọi là Kim Cang Thừa, thời trước chỉ lưu truyền qua kinh sách viết bằng tiếng Tây Tạng.
Thực ra, ngay trong các truyền thống đặc thù, cũng có các ngã rẽ bộ phái. Thí dụ, trong Phật Giáo Tây Tạng, cũng có 4 tông phái chính (Nyingma, Kagyupa, Sakya, Gelug), và phương pháp tu học, thiền tập cũng dị biệt. Do vậy, khi tổ chức Viet Nalanda (http://www.vietnalanda.org/) – gồm nhiều người trẻ gốc Việt, đa số trưởng thành ở hải ngoại – được thiết lập để nghiên cứu và tu học theo Phật Giáo Tây Tạng, họ đã chọn lập trường bất bộ phái, và lấy truyền thống Nalanda làm tên gọi.
Khi ra hải ngoại, và khi Internet đã xuất hiện như một phương tiện truyền thông chính, các lựa chọn ngay tức khắc hiện ra. Khi trẻ em còn nhỏ, quan tâm này chỉ hiện ra với phụ huynh. Lý do chính yếu: trên các kênh truyền hình tiếng Anh, tràn ngập các đài truyền hình Ky Tô Giáo; và bạn học trong trường của trẻ em đa số theo đạo Ky Tô Giáo, trong đó các hệ phái Tin Lành là phần lớn. Do vậy, nếu mình không dạy con mình, người khác sẽ dạy; và ai biết được, người khác đó, từ Internet hay TV hay từ phố thị, sẽ dạy con mình những gì.
Thế giới đang bên mép bờ của những cuộc thánh chiến. Do vậy, điều khó là, làm sao có thể gìn giữ hòa bình, trong khi chấp nhận bất đồng của nhau. Để có thể sống chung trong một địa cầu đang gần nhau, đang thu hẹp vì kỹ thuật truyền thông ngày càng tối tân, các nhà sư lãnh đạo Phật Giáo đã đi tìm một giải thích trung tâm từ Phật pháp.
Đó cũng là lý do, nhà sư Tích Lan Bhante Henepola Gunaratana – từng là giáo sư đại học Hoa Kỳ, hiện nay là một tác giả nhiều sách về Thiền Chánh Niệm viết bằng Anh ngữ – nơi trang XV, trong Lời Giới Thiệu trong sách đã dẫn trên, ghi nhận: “”Phật Giáo trong mọi hình thức đã thu hút sự chú ý của thế giới vì đã hiện diện hòa bình bên các tôn giáo khác. Theo thông điệp trung tâm này của Đức Phật, tất cả từng người chúng ta nên là một sứ giả của hòa bình. Đây là gắn kết chung của chúng ta.”[2]
Trong khi đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma viết: “Đây là tôn giáo đơn giản của tôi. Không cần tới chùa, không cần triết lý phức tạp. Tâm trí của chúng tôi, tấm lòng của chúng tôi đã là ngôi chùa của chúng tôi; triết lý là lòng từ bi yêu thương.”[3]
Vậy thì, nhiều phụ huynh suy nghĩ: phải dạy con mình về Phật Giáo. Tới đây, câu hỏi là Phật Giáo nào?
Có một số cuộc tranh luận từ các tông phái tại Việt Nam từ nhiều thập niên, và nói đúng ta, từ nhiều thế kỷ. Phật Giáo Bắc Tông thường chia làm hai khuynh hướng chính: Thiền Tông, Tịnh Độ Tông. Một số chùa Việt Nam, đặc biệt là từ nửa đầu thế kỷ 19 trở về trước, chọn khuynh hướng Thiền Tịnh Song Tu. Có lẽ, cách tiện nhất là không tham dự tranh luận, chỉ nên thuận theo khuynh hướng nào gần với lòng mình nhất.
Đức Đạt Lai Lạt Ma khi nói về Tịnh Độ Bắc Tông (có khác với Tịnh Độ của Phật Giáo Tây Tạng), đã ghi nhận thêm: “Tịnh Độ cũng có thể được xem như bản tánh thanh tịnh của tâm chúng ta.[4] Như thế, đó là hướng về Duy Tâm Tịnh Độ, theo cách nói quen thuộc của Phật Giáo Việt Nam.
Đôi khi, cuộc tranh luận tới ngã rẽ gần với thời đại của chúng ta hơn. Thí dụ, việc thiết lập Ni Đoàn tại Thái Lan, nơi quý Thầy với hỗ trợ từ chính phủ hoàng gia đã ngăn cấm và không công nhận phụ nữ thọ cụ túc giới.
Có một vấn đề chung, rằng trong xã hội Hoa Kỳ, trong khi chúng ta dễ dàng tiếp cận các khuynh hướng Phật Giáo khác nhau – từ quý thầy nhiều quốc tịch, nhiều tông phái, nhiều nghi lễ dị biệt – điều cần nhất là tìm điểm chung, để dễ dàng hộ trì Tam Bảo.
Điểm chung nhất: Không có Thượng Đế. Nghĩa là, không hề có vị Thần Sáng Tạo nào. Đây là quan điểm được các nhà khoa học tán đồng. Chúng ta có thể thấy rằng các nhà khoa học lớn, như Albert Einstein, Stephen Hawking, Bill Gates… hoặc là tự nhận vô thần (atheist), hoặc là tự nhận là bất khả tri luận (agnostic), một cách dùng từ lịch sự và khéo léo để bác bỏ tín ngưỡng hữu thần.
Những điểm chung trong Phật Giáo có thể tìm thêm, trước tiên là quan điểm về Tam Bảo – Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo.
Tuy nhiên, nếu đi sâu, chúng ta vẫn thấy dị biệt tông phái. Thí dụ, quan điểm về Đức Phật theo quý Thầy Nam Tông có khác với hình ảnh Đức Phật qua diễn tả của Bắc Tông và Kim Cang Thừa. Hay là quan điểm ứng hóa thân, và rồi quan điểm Bồ Tát Thừa chỉ thấy trong Bắc Tông và Kim Cang Thừa.
Nên thấy, hình ảnh Đức Phật khi còn là một vị Bồ Tát đã từng hiện thân vào hàng trăm chúng hội của nhiều giai cấp xã hội, nhiều thành phần dị biệt… để tùy cơ thuyết pháp và rồi biến dạng đi đã từng được kể trong Trường Bộ Kinh, Tạng Pali, qua lời Đức Phật kể lại cho ngài Anan.[5] Như thế, có phải hình ảnh Bồ Tát Quan Thế Âm trong phẩm Phổ Môn, Kinh Pháp Hoa, là ghi theo Trường Bộ Kinh? Và đây là Ứng Hóa Thân Phật?
Điểm chung về Tam Pháp Ấn, nghĩa là tất cả các pháp thế gian đều mang 3 đặc tính: khổ, vô thường, vô ngã.
Điểm chung về Tam Học (Giới, Định, Huệ) cần có để đánh bại Tam Độc (Tham, Sân, Si).
Điểm chung về Bốn Sự Thật Cao Quý (còn gọi là Tứ Thánh Đế, hay Tứ Diệu Đế – tiếng Anh là The Four Noble Truths): Khổ Đế, Tập Đế, Đạo Đế, Diệt Đế.
Trong phần Đạo Đế, cụ thể con đường giải thoát là Bát Chánh Đạo: Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mệnh, Chính tinh tiến, Chính niệm, Chính định.
Tuy nhiên, trên đường tu học Bát Chánh Đạo, có nhiều phương cách khác nhau đưa ra. Như trường hợp Phật Giáo Bắc Tông Việt Nam, về Thiền Tông gần đây đã chia ra hai dòng có nhiều ảnh hưởng lớn trên nhiều quốc gia:
– Dòng Thiền Trúc Lâm, do Thầy Thích Thanh Từ hồi phục theo Phật Hoàng Trần Nhân Tông, hiện nay đã có tu viện ở nhiều tỉnh trong VN, và ở nhiều nước toàn cầu;
– Dòng Thiền Làng Mai, do Thầy Nhất Hạnh sáng lập, hiện đã có nhiều tăng thân khắp thế giới.
Hãy tin rằng, không chí đối với chúng ta, hiện nay, những lựa chọn phân vân tương tự đã xảy ra ở nhiều nước, nhiều thế hệ.
Như trường hợp, Thiền Nam Tông, thường gọi là Vipassana, cũng có nhiều phương pháp tiếp cận, tuy rằng tất cả đều dựa vào Kinh Tạng Pali.
Theo Tự Điển Bách Khoa Mở, ‘Phương Pháp Tân Miến Điện” thiết lập bởi Sư U Nārada, quảng bá bởi môn đệ là Sư Mahasi Sayadaw (1904-1982) dạy trước tiên là tập Chỉ, sau là tập Quán, và cách quán là gọi tên (labeling: nhận ra và gọi tên) bất kỳ những kinh nghiệm nào hiện ra nơi thân hay tâm. Một vị Thầy nổi tiếng từ truyền thống này là Bhikkhu Bodhi.
Trong khi đó, phương pháp Ledi thiết lập bởi Sư Ledi Sayadaw (1846 – 1923) và các môn đệ, nổi tiếng nhất là ngài S. N. Goenka (1924 – 2013), trước tiên là tập Chỉ bằng niệm hơi thở, và sau đó là Niệm Thọ qua cách chú tâm quét toàn thân (body sweep). Phương pháp này được ưa chuộng nhiều nhất toàn cầu, theo Sư Bhikkhu Analayo.
Phương pháp nổi tiếng khác của Nam Tông là từ Sư Mogok Sayadaw, tập trung niệm thọ và niệm tâm, nhận ra sự khởi tập và sự biến mất của tất cả các kinh nghiệm của thân tâm, từ đây sẽ kinh nghiệm về tánh vô thường của tất cả các pháp.
Trong khi đó, ngài Dipa Ma (1911 – 1989), phụ nữ Châu Á đầu tiên được mời sang Hoa Kỳ dạy Thiền, luôn luôn dạy khởi đầu bằng Thiền Tâm Từ.
Nhìn cho kỹ, cả Thiền Trúc Lâm và Thiền Làng Mai đều sử dụng một số, hoặc tổng hợp, các phương pháp Thiền Nam Tông nêu trên. Riêng trường hợp Thiền Trúc Lâm (do Thầy Thích Thanh Từ hồi phục), đôi khi có nhấn mạnh về Thiền Đốn Ngộ, một cơ duyên của tâm bật sáng và nhận ra lối vào đạo.
Yếu tố Đốn Ngộ cũng có nói trong Thiền Tây Tạng (Thiền Mahamudra và Thiền Dzogchen) và Thiền Tông Trung Hoa (và Đại Hàn, Nhật Bản). Yếu tố này đôi khi có nói trong Kinh Tạng Pali, nổi bật là trường hợp Ngài Bahiya.
Nếu chúng ta quy yếu tố “đốn ngộ” riêng về trường hợp “nhận ra bản tâm” – sẽ thấy một nhà sư Nam Tông đã nói rất cụ thể. Sư Ajahn Chah trong cuốn “A Taste of Freedom” (Một Vị của Giải Thoát) đã viết: “Pháp thiền tập của chúng tôi đơn giản là thấy Tâm Bản Nhiên (Our practice is simply to see the Original Mind). Do vậy, chúng ta phảỉ luyện tâm để biết các trần căn, và không bị chúng lôi kéo đi. Để làm nó [tâm này] bình an. Chỉ như thế là mục tiêu của tất cả pháp thiền tập gian nan mà chúng ta phải trải qua.”[6]
Cần ghi nhận, Bắc Tông vẫn khác Nam Tông vì các sư Bắc Tông trong kinh nhật tụng đều phát nguyện Bồ Tát.
Vậy thì, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói gì về những dị biệt thiền tập? Ngài kể lại trong sách BOTMT nêu ở trên, nơi các trang 191-192 rằng trong một cuộc thảo luận công cộng với Hòa Thượng Thánh Nghiêm (Sheng Yen, đã viên tịch năm 2009), và nhận ra điểm chung của Thiền Tây Tạng và Thiền Trung Hoa là dù đốn hay tiệm, vẫn luôn luôn cần miệt mài nhiều thời gian tu tập, và một điểm chung nữa là phải ra Tánh Không của các pháp.
Nếu chúng ta dùng lời phân tích trên để đối chiếu, tất cả các Thiền phái Phật Giáo trên toàn cầu đều có điểm chung như thế: nhận ra Tánh Không (Emptiness) của các pháp, có nghĩa là pháp ấn Vô Thường (Impermanence), pháp ấn Vô Ngã (Non-self) – và tất cả các nghĩa trên đều diễn giải bằng Định Luật Nhân Duyên (the Law of Cause and Effect.).
Bây giờ, một câu hỏi cụ thể, về cách thực hành Thiền, có một phương pháp nào chung nhất và dễ tiếp cận trong Thiền Phật Giáo hay không?
Nhà sư Thái Lan Ajahn Chah nói ngắn gọn rằng: Chớ dính mắc vào bất kỳ pháp nào hết…[7] Ý trên được sư giải thích thêm là chớ dính mắc cả tốt xấu, lành dữ, vui buồn.
Nếu bạn tìm trong tiếng Anh, sẽ thấy nhóm chữ “non-grasping and non-clinging” (không nắm giữ, không dính mắc vào) là cách dịch phổ biến.
Sư Tăng Xán, một nhà sư Trung Hoa thế kỷ thứ 6 cũng đã viết như thế trong Tín Tâm Minh:
Đạo lớn chẳng gì khó
cốt đừng chọn lựa thôi
quí hồ không thương ghét
thì tự nhiên sáng ngời…
Ngắn gọn, là không nắm giữ, không dính chấp gì.
Trong Tương Ưng Bộ Kinh (SN 12.52), Đức Phật cũng dạy như thế qua Kinh “Upadana Sutta: Clinging.”[8]
Sư Ajahn Chah trong sách vừa dẫn, ở trang 120, viết về một cách tương tự:
“Pháp này gọi là làm cho tâm rỗng rang. Tâm rỗng rang, nhưng vẫn đang hoạt động. Cái rỗng rang trống không này là điều người ta thường không hiểu, chỉ có những người đạt tới tâm này mới thấy trị giá thật của nó…” (Just this is called ‘making the mind empty’. It’s empty but there is still doing. This emptiness is something people don’t usually understand, only those who reach it see the real value of it… Sđd, p. 120)
Pháp này, Lục Tổ Huệ Năng gọi là Vô Niệm. Kinh Tương Ưng Bộ SN 35:30 cũng nói như thế, khi Đức Phật dạy nhổ hết gốc rễ mọi tư lường.[9]
Như thế, khi chúng ta quy tất cả về Tam Pháp Ấn, về Tánh Không… chúng ta sẽ thấy tất cả các sư đều tìm cách tiếp cận trong cách quý thầy cho là thích hợp hay tiện lợi. Không có nghĩa rằng, khi tu pháp này là phải bài bác pháp khác; nghĩa là nên nhìn các pháp Thiền Nam Tông, Bắc Tông, Kim Cang Thừa ở những điểm chung trong giáo lý nhà Phật như đã nêu trên.
Do vậy, khi lựa chọn bộ phái nên tìm những gì tự nhiên nhất với mình, gần gũi nhất với mình. Nhưng ngay cả khi đã tu học trong một dòng thiền riêng, cũng nên đọc nhiều về các tông phái khác, và cũng có thể học thêm từ các dòng thiền khác… Không có gì hoàn toàn vô ích cả. Điều quan trọng nhất không phảỉ là những gì ở ngoài, không phải ở sách này hay sách kia.
Cốt tủy nhất, chính là nhìn vào tâm mình. Lặng lẽ quan sát tâm mình, từng phút một, từng giây một, bất kể đang đi đứng nằm ngồi, và không để dính mắc bất cứ pháp nào khởi lên trong tâm; vì trong thật tướng, tất cả các pháp đều vô ngã. Đây là điểm chung nhất cho tất cả các pháp nêu trên.
[1] “Buddhism: One Teacher, Many Traditions” tác giả là Đức Đạt Lai Lạt Ma và Ni Trưởng Thubten Chodron. Có thể đọc miễn phí nhiều trang sách này ở: www.amazon.com/Buddhism-One-Teacher-Many-Traditions/dp/1614291276/ref=sr_1_1?s=books&ie=UTF8&qid=1426442947&sr=1-1&keywords=buddhism+one+teacher+many+traditions
[2] Nguyên văn: “Buddhism in all its forms draws the world’s attention for its peaceful existence with other religions. Following this central message of the Buddha, every one of us should be a messenger of peace. This is our common bond.” (Sđd, trang XV)
[3] Nguyên văn: “This is my simple religion. There is no need for temples; no need for complicated philosophy. Our own brain, our own heart is our temple; the philosophy is kindness.” (Sách “Kindness and Compassion” trang 52)
[4] Nguyên văn: “The pure land can also be viewed as the pure nature of our own minds.” (Sách đã dẫn ở Ghi Chú 1, trang 8)
[5] Sách đã dẫn ở Ghi Chú 1, trang 33. Đọc tiếng Anh ở Dīgha Nikāya 16:3.22: https://suttacentral.net/en/dn16#22
[6] Xem bài “Ai Gìn Giữ Tâm Nguyên Sơ” ở link: http://thuvienhoasen.org/a21498/ai-gin-giu-tam-nguyen-so[7] Chương “No Abiding” ở các trang 118-121 trong tuyển tập các bài pháp “The Teachings of Ajahn Chah”
[8] Kinh SN 12.52 ở link: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn12/sn12.052.than.html
[9] Kinh SN 35.30 ở link: http://suttacentral.net/en/sn35.30
___________________________________________
Tiếp cận các nguồn
nghiên cứu Phật học Anh ngữ
Nguyên Giác Phan Tấn Hải
(Bài nói chuyện trong buổi hội luận “Phật Giáo Việt Nam Tại Mỹ: Nhìn về Tương Lai, Cơ Hội và Thách Thức,”
của Đuốc Tuệ hôm Chủ Nhật 16-12-2012 tại Huntington Beach, California.)
Bài này sẽ tập trung nói về đề tài, một vài cách tiếp cận các nguồn nghiên cứu Phật học Anh ngữ. Và qua đây, thử khảo sát một vài thắc mắc thường gặp. Đặc biệt, chúng ta sẽ dò tìm dấu tích Kinh Kim Cương, một kinh căn bản của Tổ Sư Thiền, trong Tạng Pali.
Nói thế không có nghĩa là các nguồn nghiên cứu Phật học bằng Việt ngữ, Pháp ngữ, Hán ngữ, Tạng ngữ, Sanskrit, Pali, vân vân… là không cần thiết. Tất cả đều cần thiết, nhưng kho tàng Phật học trên Internet lưu trữ nhiều nhất là qua Anh ngữ, và tiện dụng nhất cho chúng ta, những người học Phật tại Hoa Kỳ để dễ dàng bổ túc hoặc đối chiếu công việc học Phật của mình. Đặc biệt, thế hệ kế tiếp của chúng ta thường kém hoặc không còn đọc được tiếng Việt, cho nên chúng ta cần tìm hiểu Phật học Anh ngữ để có thể quan sát, giúp đỡ và hướng dẫn con em mình.
May mắn là, chúng ta đang ở thời đại kỹ thuật số. Những gì muốn biết hầu hết đã lên Internet. Không chỉ kinh sách bằng chữ viết, mà cả băng hình các bài giảng do quý Tăng Ni thực hiện. Y hệt như thần thông: chúng ta ngồi một chỗ, mở máy vi tính lên, nối mạng Internet, là biết đủ thứ chuyện xa ngàn dặm. Thông tin tràn ngập, không đọc hết nổi, dù là Việt ngữ hay Anh ngữ.
Thực tế, đọc kinh sách Phật Giáo bằng Việt ngữ cũng đã nhiều rồi. Thí dụ, kho kinh sách trên Thư Viện Hoa Sen (www.thuvienhoasen.org) không mấy ai đọc hết nổi. Trong khi đó, kho kinh tạng đã dịch sang Anh ngữ bởi quý Tăng Ni Cư Sĩ cũng đã tràn ngập, nhiều mênh mông. Từ kho kinh tạng dịch ra Anh ngữ ở Thái Lan, Tích Lan, Miến Điện là có hỗ trợ từ chính phủ hay từ các đại học; hay kinh sách dịch ra Anh ngữ từ phía Nhật, Trung Quốc, Đài Loan cũng nhiều vô kể.
Tại sao cần tham khảo, trong khi tiếng Việt đã quá nhiều? Lý do, có khi thắc mắc của chúng ta chưa có câu trả lời trong kho Phật Học Việt Ngữ, hoặc chỉ mới giảỉ đáp được một phần. Cũng có khi chúng ta thấy các bản dịch bất toàn, vì khi chuyển ngữ, tất sẽ có những thiếu sót nhất định. Thực tế, bản dịch nào cũng có thiếu sót. Vì nhiều Thầy học tiếng Sanskrit, tiếng Pali có khi chỉ mới 5 năm, 10 năm là bắt đầu dịch Kinh. Chúng ta ở Mỹ thì biết rồi, dù học tiếng Anh ngày đêm, trong cả hai hay ba thập niên, thấy cũng chưa đủ hiểu hết cách sử dụng tiếng Mỹ huống gì là học tiếng Mỹ có 5 hay 10 năm. Đức Phật thời xưa nói bằng cổ ngữ Magadhi Prakrit. Hãy hình dung rằng, tương tự như cổ ngữ Latin, sau biến thể thành tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức. Do vậy, dò lại tận nguồn, cần đối chiếu, tham khảo, tiếp cận với Kinh Phật từ nhiều hướng khác nhau.
COI CHỪNG HÀNG GIẢ
Trong khi đó, những lời giả làm như lời Phật dạy thì có nhiều. Thí dụ, như trên mạng email và nhiều diễn đàn gần đây, chúng ta thấy có bản văn ghi là “66 câu Thiền ngữ chấn động thế giới,” thực ra là do người giả danh Phật Tử viết ra. Bạn xem câu thứ 50 là biết:
“50. Cảm ơn Thượng đế với những gì tôi đã có, cảm ơn Thượng đế những gì tôi không có.” Người ta đang nhẹ nhàng cấy tư tưởng Ky Tô Giáo vào đầu của chúng ta.
Không chỉ như thế, bạn ra các tiệm cơm chay ở Quận Cam, cầm một số bản văn để ở góc tiệm đề tặng miễn phí. Rất nhiều bản văn là của người Ky Tô Giáo giả danh Phật Tử, viết ra và đặt ở các tiệm cơm chay này. Nếu bạn lên các trang mạng xã hội, như Facebook và Twitter, cũng sẽ gặp thêm nhiều câu nói giả làm như lời Đức Đạt Lai Lạt Ma nói. Nghe có vẻ như Phật pháp, nhưng thực ra là xôi đậu với các tôn giáo khác.
Do vậy, phải có căn bản Phật học để phân biệt đâu là đúng lời Phật dạy, và đâu là không đúng.
DỊ BIỆT GIỮA CÁC KHO TÀNG PHẬT HỌC
Tới đây, vấn đề là, giáo pháp Đức Phật dạy qua nhiều thế kỷ, tất bị diễn giải có thể sai lệch, hoặc nơi này hay nơi kia, bởi chính các nhà sư và các nhà nghiên cứu Phật Học.
Thực tế, trong vài trăm năm đầu tiên, lời dạy của Đức Phật là khẩu truyền, dạy qua tụng đọc hàng ngày, lưu giữ từ trí nhớ thế hệ này sang thế hệ kia. Chúng ta thử nghĩ rằng, chuyện ngày hôm qua, hay tuần trước, có khi chúng ta còn không nhớ nổi, hay là có thể sẽ nhớ sai lệch. Do vậy. kho tàng Phật pháp khi chép xuống giấy nhiều thế kỷ sau, tất là được lưạ chọn bởi các vị sư lớn; những lời dạy khả vấn, hay là không phù hợp với pháp hành của các vị đại tăng trong kỳ kết tập là sẽ bị loại ra.
Tạng Kinh Pali được kết tập sớm nhất, chép lại lời Phật dạy bằng ngôn ngữ Pali, trong Hội Nghị Tăng Già lần thứ 4, vào năm 29 trước Tây Lịch, tức là 454 năm sau khi Đức Phật viên tịch. Nghĩa là đã được tụng đọc, nhẩm vào trí nhớ qua cả chục thế hệ tăng ni trước khi chép xuống ngôn ngữ Pali.
Các bản Anh dịch bắt đầu xuất hiện từ cuối thế kỷ 19, bởi vì cuốn tự điển Pali-Anh ngữ đầu tiên được in là năm 1874. Nhiều cuốn tự điển tương tự, từ các học giả khác, nhiều năm sau đã được soạn lại và in ra, để bổ túc cho những cuốn bất toàn ban đầu.
Bây giờ, chúng ta có Kinh Tạng Pali bằng tiếng Anh do nhiều nơi dịch, từ các sư và học giả Mỹ, Anh, Úc, Thái Lan, Tích Lan, Miến Điện, Tây Tạng, Việt Nam, vân vân.
Cần ghi nhận, tương đương Tạng Pali trong Hán Tạng là các Kinh A Hàm. Dị biệt là có, nhưng không nhiều. Kinh Pháp Cú bản chúng ta thường gặp là từ Tạng Pali, nhưng ấn bản dị biệt cũng có trong Tạng Kinh Tây Tạng, Tạng Kinh Hán Tạng, Tạng Kinh Gandhari, Tạng Kinh Sanskrit.
DỊ BIỆT GIỮA CÁC BẢN DỊCH
Duy có điều phải nhấn mạnh, không phải ai dịch cũng như nhau. Kể cả bản Kinh Pháp Cú là được đọc nhiều nhất trên thế giới trong nhiều ngôn ngữ, thì bản Kinh Pháp Cú khi dịch sang Anh ngữ, lại được diễn giải có khá dị biệt tùy dịch giả. Hãy suy nghĩ rằng, đã có vài chục bản Anh dịch của Kinh Pháp Cú, chỉ vì người dịch sau không đồng ý về cách dịch của người trước. Chúng ta không dám nói rằng các ngài là dở, chỉ có thể nói rằng các ngài có những cách hiểu Kinh Pháp Cú và cách diễn lại trong Anh ngữ dị biệt nhau. Cân ghi chú rằng, các links trong bài này ghi trong tháng 11-2012, cho tới buổi hội luận trong tháng 12-2012 hy vọng không thay đổi gì.
Nhà sư Thanissaro Bhikkhu trong Lời Giới Thiệu bản Anh dịch Kinh Pháp Cú của ngài trên mạng Access to Insight vào năm 1997, nói rằng phải cần ít nhất tới 5 người mới đủ ngón tay để đếm các bản Anh dịch Kinh Pháp Cú. Có nghĩa là, đã có ít nhất 41 bản dịch Kinh Pháp Cú.
Tuy nhiên, có những bản dịch cho thấy nghĩa cách biệt quá xa, thì phải nghi ngờ, và nên kiểm chứng với các bản dịch khác.
Lấy thí dụ, Kinh Pháp Cú, bài kệ thứ 372, bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu là:
372. “Không trí tuệ, không thiền,
Không thiền, không trí tuệ.
Người có thiền có tuệ,
Nhất định gần Niết-Bàn.”
(www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-8452_5-50_15-1_14-1_6-2_17-53/)
Bản Việt dịch của Hòa thượng Thích Thiện Siêu, dựa vào bản Anh dịch của Hòa thượng Narada, theo ấn bản Sri Lanka, là:
372. Không trí tuệ, không định,
Không định, không trí tuệ;
Người có tuệ, có định,
Ðạt Niết bàn viên tịnh.
(www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-11002_5-50_6-1_17-58_14-1_15-1/)
Hai bản trên gần nghĩa nhau. Ngắn gọn, đó là pháp Thiền Chỉ Quán.
Nhưng trong 25 bản Anh dịch của kệ 372 có rất nhiều dị biệt trên phần đối chiếu ở trang Great Western Vehicle. (www.greatwesternvehicle.org/pali/Phala_Nikaya/dhammapada372.htm).
Thí dụ, cách dịch của Jeffrey S. Brooks:
There is no ecstasy without wisdom (Không có thần hứng nếu không có trí tuệ)
There is no wisdom without ecstasy (Không có trí tuệ nếu không có thần hứng)
Whoever is close to enlightenment (Người tới gần giác ngộ)
truly has both wisdom and ecstasy. (Thực sự có cả trí tuệ và thần hứng)
Chữ ecstasy gần đây thường chỉ cho thuốc lắc, một loạị ma túy. Nhưng khi dịch là ecstasy, là mượn chữ Ky Tô Giáo, nói về cảm giác ngây ngất và không còn biết chuyện gì ở chung quanh, thì là không đúng hoàn toàn. Vì Đức Phật và quý A La Hán đi đứng nằm ngồi đều ở trong cảnh giới của đại định và tuệ giác.
Hay là bản Anh dịch của ngài Viggo Fausböll:
Without knowledge there is no meditation (Không có kiến thức sẽ không có thiền định)
without meditation there is no knowledge (Không có thiền định sẽ không có kiến thức)
he who has knowledge and meditation (Người nào có kiến thức và thiền định)
is near unto Nirvana. (Thì gần với Niết Bàn).
Dịch như thế, là cách biệt quá. Vì kiến thức là pháp thế gian, không phải thiền Chỉ của nhà Phật.
Hay bản Anh dịch của Dr C. Raja Mohan:
There is no meditation for one who has no understanding; (Không có thiền, nếu không có hiểu biết)
there is no understanding for one who does not meditate.(Không có hiểu biết, nếu không có thiền)
He in whom there is both meditation and understanding, (Người có cả thiền và hiểu biết)
he verily is in the vicinity of nirvana.(Thì đã tới gần Niết Bàn)
Chữ “understanding” nhiều nghĩa quá, có nghĩa là hiểu biết của trí tuệ, có nghĩa hiểu biết trong đời thường, cũng có nghĩa là cảm thông và thương cảm. Nếu dựa vào bản này mà dịch sang Việt ngữ là dễ sai lệch nữa.
Nhìn lại, trong khi Thầy Minh Châu dịch là “thiền,” Thầy Thiện Siêu dịch là “định,” thì Brooks dịch là “thần hứng,” còn Fausboll dịch là “kiến thức,” và Mohan dịch là “hiểu biết.” Quả là cách biệt cả ngàn dặm xa. Nếu kiểm chứng bằng phương pháp back-translation, nghĩa là dịch ngược từ Việt ngữ sang ngôn ngữ gốc, tất sẽ thấy nhiều bản dịch đã đi quá xa.
Do vậy, cần đối chiếu nhiều bản Anh dịch khác nhau. Nghĩa là, chúng ta phải giỏi tiếng Anh, và biết sử dụng phương tiện Internet để đối chiếu với nhiều nguồn.
TRẠCH PHÁP & TAM PHÁP ẤN
Do vậy, chúng ta phảỉ có một cách để nhận ra, đâu là Phật Pháp, và đâu là ngoài Phật Pháp.
Ban Hoằng Pháp GHPHVN viết trong bài Tam Pháp Ấn:
“Tam pháp ấn: vô thường, khổ và vô ngã chính là ba dấu ấn mang tính pháp định, dùng để ấn chứng, chứng nhận tính xác thực của Chánh pháp. Mọi giáo lý của đạo Phật, tất yếu đều phải mang các pháp ấn, nếu thiếu một trong những pháp ấn đó thì giáo lý ấy chắc chắn không phải Chánh pháp, lời Phật dạy. Chính vì tính chất quan trọng này mà Tam pháp ấn luôn được nhắc đến trong hầu hết kinh điển, từ Kinh tạng Nam truyền đến Bắc truyền.”
Như vậy, câu hỏi khi gặp những câu nói khả nghi, chúng ta có thể lấy Tam Pháp Ấn để dò xét thật, giả.
Thí dụ, như trong cái gọi là “66 câu Thiền ngữ chấn động,” theo pháp thế gian, chúng ta có thể hỏi ngay, nhóm 66 câu này nguồn từ đâu? Nếu là bản tin, tất phải là tin AP, hay Reuters, hay tin AFP, hay tin Yonhap, vân vân. Nhưng vì không phải bản tin, vậy thì chúng ta hỏi rằng nhóm 66 câu này từ Kinh nào, hay từ tuyển tập nào, và do ai kết tập? Khi thấy không ghi tác giả hay người hợp tuyển, và không thấy ghi nguồn từ sách nào, chúng ta phải nghi ngay.
Trước tiên, nên hỏi, tại sao là 66, mà không phải là theo những pháp số thường gặp trong Kinh Phật? Thí dụ, quen thuộc nhất là Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên, 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, và vân vân. Chúng ta không nhớ nổi là số 66 ở đâu.
Bạn nên vào trang http://www.google.com và gõ vào nhóm chữ “66 number” rồi click SEARCH.
Bạn sẽ thấy ra nhiều kết quả có liên hệ tới Kinh Thánh Ky Tô Giáo. Thí dụ, một kết quả:
66 (Sixty Six) and The Word of God (nghĩa là: Số 66 và Lời của Thiên Chúa)
Hay là, bạn thử nhấp chuột vào dòng chữ:
66 (number) – Wikipedia, the free encyclopedia
sẽ thấy nhiều giải thích chi tiết.
Trong nhiều giải thích, có ít nhất 3 nghĩa liên hệ tới Kinh Thánh Ky Tô: 66 là số lượng sách trong ấn bản Tin Lành cho cả Tân và Cựu Ước, 66 là tổng số chương trong Tập Isaiah của Kinh Thánh, và 66 là số lượng bài thơ trong Chương 3 của Những Bài Ca Thương Khóc trong Cựu Ước.
Như thế, là hàng giả bắt đầu lộ ra rồi. Và bây giờ dùng tới Tam Pháp Ấn để dò xét.
Thử lấy câu số 1 trong cái gọi là “66 Câu Thiền Ngữ Chấn Động Thế Giới Ra Xem.”
Câu này là: “1. Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.” Thoạt nghe, thấy có vẻ hợp lý theo nghĩa đời thường, khi bàn về cội nguồn đau khổ. Nhưng nghĩ kỹ, sẽ thấy câu nóí đó xa lìa Phật pháp.
Nhưng chúng ta hỏi xem, câu này có mang nghĩa Khổ (tức là sự bất toàn) hay không? Có mang nghĩa Vô Thường hay không?
Trước tiên, nên tập nhìn các pháp như nó đang là. Hãy tự nhìn vào thân và tâm của mình, sẽ thấy như Phật dạy, rằng từ sợi tóc cho tới móng chân mình không hề có cái gì gọi được là “cái tôi” hết. Đức Phật nói cách quán đơn giản này là, nếu có cái gì là mình, thì mình chủ động được nó; nhưng vì mình không chủ động gì được, nên thực sự là vô ngã. Nghĩa này không có nghĩa là hư vô, mà chỉ là xa lìa tướng ngã.
Cho nên Phật dạy, đó chính là vô ngã, đó chính là “có khổ, nhưng không có người thọ khổ.” Người ngoàì Phật giáo không bao giờ hiểu nổi câu nói “có thọ khổ nhưng không có người thọ khổ” trong Tứ Diệu Đế.
Bây giờ, bạn gõ chữ “origin of suffering” (tức: nguồn gốc của khổ), sẽ ra nhiều mục từ. Trong đó có: “Four Noble Truths – Wikipedia, the free encyclopedia.” Tức là Tứ Diệu Đế.
Bạn nhấp chuột vào, sẽ thấy Sự Thật Thứ Nhì là nguồn gốc khổ. Bạn có thể đọc thẳng bằng tiếng Anh, hay nhấp chuột vào cột bên trái, vào dòng chữ “Tiếng Việt” sẽ thấy mục từ “Tứ diệu đế.”
Sẽ thấy Chân Lý Thứ 2 là:
“Tập đế, chân lý về sự phát sinh của khổ: Nguyên nhân của khổ là sự ham muốn và ghét bỏ, Ái, tìm sự thỏa mãn dục vọng, thỏa mãn được trở thành, thỏa mãn được hoại diệt. Các loại ham muốn này là gốc của Luân hồi.”
Ngắn gọi, toàn bộ ý này có nghĩa là tham, sân và si. Vì ham muốn, dục vọng, muốn trở thành và muốn hoại diệt đều là tham. Và vì tham cái này, tất phảỉ ghét bỏ cái kia, đó là sân. Không thấy cội nguồn của khổ, đó là si.
Ngắn gọn: dính mắc vào các pháp là Khổ.
Đâu hề có nói gì về “đeo đuổi những thứ sai lầm,” vì thực ra đeo đuổi hay xua đuổi những thứ ở cõi này rồi cũng sẽ luân hồi với cõi này.
Rồi khi đọc lướt lướt 66 câu kia, sẽ thấy câu 50 là về Thượng Đế ban phát gì đó, thì bạn biết ngay là hàng giả rồi. Khỏi cần truy cứu làm chi nữa.
CÓ BAO NHIÊU PHÁP MÔN GIẢI THOÁT?
Bây giờ, chúng ta thử dùng các công cụ Internet để khảo sát trong kho tàng Phật Học Anh ngữ, xem Đức Phật dạy bao nhiêu pháp giải thoát.
Có câu hỏi thường gặp, có phải Đức Phật dạy rằng Tứ Niệm Xứ là pháp môn giải thoát duy nhất?
Khi nghe như thế, chúng ta qua trực giác, thấy rằng có gì không hoàn toàn ổn thỏa. Bởi vì nếu chúng ta đọc nhiều, sẽ thấy ngay trong Kinh Phật đã nói rất nhiều về Thiền Chỉ Quán.
Bây giờ, chúng ta hãy vào trang Google.com, gõ dòng chữ:
many paths to arhat
và nhấp chuột vào nút Search. Nghĩa tiếng Việt câu đó là “nhiều con đường tới A La Hán”.
Sẽ thấy nhiều mục từ, nhưng hãy vào trang:
Arhat (Buddhism)
(en.wikipedia.org/wiki/Arhat_%28Buddhism%29)
Trong này có dẫn Kinh Tăng Chi Bộ số AN 4.170 trong Tạng Pali. Trong Kinh này, ngài Ananda nói có 4 con đường để vào Niết Bàn.
Nối kết trên có ghi chú 2 bản Anh dịch của Kinh này: “Translations for this sutta can be found in Bodhi (2005) pp. 268–9, 439, and Thanissaro (1998).”
Như thế, chúng ta biết rằng Đức Phật đã dạy ít nhất là 4 con đường để giảỉ thoát.
Tới đây, nếu chúng ta muốn đọc bản Kinh vừa nói, thì lại tìm tiếp.
Chú thích số 20 cho thấy Ngàì Anada nói trong AN 4.170, như thế, chúng ta tìm Kinh Tăng Chi Bộ, vì AN là viết tắt của Anguttara Nikaya.
Vào Google, và gõ nhóm chữ sau:
Anguttara Nikaya 4.170
Sẽ thấy nhiều mục từ, nhưng hãy chọn => AN 4.170 – Access to Insight
Thì ra kinh này là “Yuganaddha Sutta: In Tandem” ở địa chỉ:
(www.accesstoinsight.org/tipitaka/an/an04/an04.170.than.html)
Thử đi tìm cách khác.
Lần này, chúng ta vào Google, và gõ chữ “nirvana,” tức là chữ “Niết Bàn.”
Và cũng ra nhiều kết quả, nhưng thử chọn:
Nirvana – Wikipedia, the free encyclopedia ở địa chỉ:
(en.wikipedia.org/wiki/Nirvana)
Trong đó, có dẫn ra Thanh Tịnh Đạo, và nói có 6 con đường để vào Niết Bàn. Và con đường thứ 6 là Tứ Niệm Xứ.
Như thế, chúng ta đã thấy rằng người ta đã ngộ nhận nếu nói rằng Đức Phật chỉ dạy duy nhất một pháp môn giảỉ thoát.
Nếu muốn đọc chi tiết từng bản Kinh nói về 6 con đường giải thoát đó, chúng ta chỉ nhấp chuột vào các số chú thích sẽ ra các bản Kinh liên hệ.
CHÁNH PHÁP CÒN PHẢỈ BỎ, HUỐNG GÌ PHI CHÁNH PHÁP
Bây giờ, chúng ta thử đi tìm một cách đối chiếu Kinh điển. Thí dụ, chúng ta nhớ rằng, hồi lớp Đệ Nhất có học thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Nhớ nhất là mấy câu:
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh,
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh,
Cập đáo phân kinh thạch đài hạ,
Tài tri vô tự thị chân kinh.
(Ta đọc Kinh Kim Cương cả ngàn lần
Yếu chỉ uyên thâm phần nhiều không hiểu hết
Tới khi viếng thăm Phân Kinh Thạch Đài
Mới biết kinh không chữ mới đúng là kinh chân thật.)
Cần nhắc rằng khi Nguyễn Du là người sống trong thế kỷ 18 và 19, đi sứ sang Tàu, khi thì Phân Kinh Thạch Đài, nơi do Lương Chiêu Minh Thái Tử xây từ thế kỷ thứ 6 làm Trung tâm Phật học, thì dưới mắt Nguyễn Du chỉ còn là nơi hoang tàn sau 13 thế kỷ vô thường.
Thơ cụ Nguyễn Du dĩ nhiên là hay tuyệt vời. Thế rồi bỗng nhiên gặp một ai đó, nói rằng Kinh Kim Cương không phải do Phật nói. Chúng ta tự nhiên băn khoăn. Chợt nghĩ, Tạng Pali chép xuống giấy là 450 năm sau khi Phật viên tịch, đúng là Kinh Kim Cương xuất hiện trễ hơn. Bản tiếng Sanskrit không rõ năm nào, nhưng bản Hán dịch là sau khi Phật viên tịch 800 năm. Và hệ kinh Sanskrit cũng xuất hiện từ sau hệ kinh Pali.
Nhưng chúng ta thấy rằng, chuyện mới xảy ra hôm qua, hay tuần trước, hay tháng trước mà người ta kể lại còn chệch nhau, huống gì là Kinh Phật trải qua nhiều thế kỷ trước khi chép xuống thành chữ, và đã trải qua nhiều không gian rộng lớn. Thì dị biệt là thường.
Thêm nữa, chúng ta cần dò từ Kinh Kim Cương, vì đây là Kinh cốt tủy của pháp môn Tổ Sư Thiền, và Lục Tổ Huệ Năng khi còn gánh nước chẻ củi cũng hốt nhiên đốn ngộ là từ câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” trong Kinh Kim Cương. Ngắn gọn, vấn đề là: có thể dò được cội nguồn Tổ Sư Thiền trong Tạng Pali hay không?
Do vậy, tới đây, chúng ta thử dò tìm dấu tích Kinh Kim Cương trong Tạng Pali bản Anh dịch.
Trước tiên, thử suy nghĩ xem, những câu nói nào điển hình trong Kinh Kim Cương.
Chúng ta chợt nhớ, Kinh Kim Cương viết rằng pháp Như Lai nói tựa như chiếc bè: “Chánh pháp còn phải bỏ, huống chi chẳng phải chánh pháp.” Câu nói này trong Kinh Kim Cương (The Diamond Sutra) của PG Bắc Truyền có thể kiểm chứng với Tạng Pali của PG Nam Truyền hay không?
Chúng ta lại vào Google, gõ nhóm chữ:
buddha raft parable site:accesstoinsight.org
Chữ “site:” có dấu 2 chấm là muốn tìm riêng ở trang web sau dấu 2 chấm đó thôi. Lý do người viết ưa đọc trang này vì chữ to, in font Time News Roman cho nên đã quen mắt và dễ đọc, đặc biệt là các bản dịch khả tín, trong sáng. Đây chỉ thí dụ thôi, để chúng ta làm quen với công cụ này, vì khi đi tìm, nên tìm rộng ở, để xem tất cả các trang, chứ không nên trụ riêng vào một trang web.
Chúng ta nơi đây, thử nhấp chuột vào kết quả này:
=> Alagaddupama Sutta: The Water-Snake Simile
(www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.022.than.html)
Kinh này thuộc Majjhima Nikaya, tức Trung Bộ Kinh.
Đức Phật trước tiên dạy rằng, tu học cũng y hệt như bắt rắn, phảỉ dùng cây gậy chạng ba đè xuống đúng thế, lấy tay bắt đúng vào cổ con rắn nước này, thì cho dù con rắn vùng vẫy, quấn tay hay chân mình thì cũng không hại được mình. Tu học Phật pháp cũng theo đúng phương pháp mới không hại.
Kế tiếp, kinh này nói về chiếc bè. Đức Phật nói rằng một người muốn qua sông, đã dùng cây gỗ, dây cỏ, quấn lại thành chiếc bè. Sau khi qua sông an toàn, người này cần rời bỏ chiếc bè.
Đức Phật nói: “In the same way, monks, I have taught the Dhamma compared to a raft, for the purpose of crossing over, not for the purpose of holding onto. Understanding the Dhamma as taught compared to a raft, you should let go even of Dhammas, to say nothing of non-Dhammas.” (Chư tỳ kheo, y hệt như thế. Ta đã dạy Pháp như một chiếc bè, vì mục đích qua sông, không vì mục đích ôm chặt lấy. Hiểu Pháp được dạy như chiếc bè, các con nên rời bỏ cả Chánh Pháp, chứ đừng nói gì tới không phải Chánh Pháp.)
Đó đúng là ngôn ngữ Kinh Kim Cương. Như thế, ngôn ngữ Kinh Kim Cương cũng có từ Tạng Pali vậy.
Hay là, thử dò tìm một câu khác trong bản Kinh này thuộc hệ thống Bát Nhã Ba La Mật Đa, một hệ thống kinh không được lưu truyền bên Phật Giáo Nam Tông.
DÒ TÌM XA LÌA TỨ TƯỚNG, ƯNG VÔ SỞ TRỤ NHI SINH KỲ TÂM…
Bây giờ, chúng ta thắng mắc, lời dạy xa lìa tứ tướng (tướng, phi tướng, phi phi tướng…) của Kinh Kim Cương nằm nơi đâu trong Tạng Pali.
Trước tiên, vào Google, thử gõ dòng chữ:
(buddha non clinging diamond site:accesstoinsight.org)
Sẽ thấy nhiều kết quả. Nhưng đúng là, không hể có Kinh Kim Cương nào trên trang web Nam Tông này. Bây giờ thử vào đây, vì thấy có chữ gì như là “diamond”:
(www.accesstoinsight.org/lib/authors/thanissaro/meditations4.html)
Đọc xuống dưới, thấy vị sư nổi tiếng Thanissaro Bhikkhu viết, có đoạn:
“Finally there’s clinging to doctrines of self. This doesn’t mean just the view that “I have a self,” whatever your sense of self might be. It also means clinging to the view that “I have no self.” Thinking in either way, the Buddha said, leads you into a thicket of views that will get you entangled. So, as with the cure for clinging to views, the Buddha has you take the polarity of existence or nonexistence and put it aside. When the issue of existing or not-existing is a non-issue, the idea of a self existing or not existing is a non-issue as well…” (hết trích)
Chúng ta có thể dịch nơi đây là:
“Cuối cùng, có sự dính mắc vào lý thuyết về tự ngã. Điều này không có nghĩa chỉ là cái nhìn rằng “Tôi có một tự ngã,” bất cứ nghĩa nào bạn nhìn về tự ngã có thể là. Nó cũng có nghĩa là dính mắc vào cái nhìn rằng “Tôi không có tự ngã nào.” Suy nghĩ cách nào đi nữa, Đức Phật dạy rằng, sẽ dẫn bạn vào biụ rậm các cách nhìn bao vây bạn. Do vậy, để chữa trị việc dính mắc vào các cái nhìn, Đức Phật bảo rằng bạn gác qua một bên các đa cực của tướng và phi tướng. Khi tướng và phi tướng không thành vấn đề, kháí niệm về một tự ngã hiện hữu hay không hiện hữu cũng tự nó không thành vấn đề…”
Nghĩa là gì? Nghĩa là “vô pháp tướng diệc vô phi pháp tướng”… Tuyệt vời là như thế, khi chúng ta dò được cội nguồn của Kinh Kim Cương từ các minh giải Kinh Tạng Pali.
Chúng ta cũng nhớ một câu nổi tiếng trong Kinh Kim Cương là “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Chúng ta thắc mắc, lời dạy này nằm chỗ nào trong Kinh Tạng Pali?
Chúng ta lại vào Google, gõ tìm nhóm chữ:
(“not cling” sutta site:accesstoinsight.org)
Nhóm chữ trong ngoặc kép có nghĩa là tìm đúng thứ tự của chữ, rằng chữ “not” phải đứng trước chữ “cling” và kết quả cũng phải có chữ “sutta.”
Tuyệt vời, ngay dòng đầu tiên, thấy bản kinh MN 143 (Trung Bộ Kinh 143):
Anathapindikovada Sutta: Advice to A Dying Man
(www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.143x.olen.html)
Nghĩa là, lời dạy cho một người đang hấp hối.
Chúng ta đọc tới đâu, là thấy y hệt như đang đọc một bản khác của Kinh Kim Cương.
Chúng ta sẽ dịch tóm gọn như sau.
Duyên khởi là gia chủ Anathapindika bệnh nặng. Ngài Xá Lợi Phất và Ananda tới thăm. Gia chủ bạch rằng toàn thân đang đau đớn, không hề giảm chút nào.
Ngài Xá Lợi Phất mới dạy, rằng gia chủ hãy quán sát thế này:
Con sẽ không dích mắc vào mắt tai mũi lưỡi thân ý.
Và niệm của con cũng sẽ không dính mắc vào mắt tai mũi lưỡi thân ý.
Con sẽ không dính mắc vào sắc thanh hương vị xúc pháp.
Và niệm của con cũng sẽ không dính mắc vào sắc thanh hương vị xúc pháp.
(… chúng ta bỏ nhiều đoạn… để tới đoạn cuối lời dạy)
Con sẽ không dính mắc vào cái được thấy, cái được nghe, cái được cảm thọ, cái được nhận biết, cái được tiếp cận, cái được truy tìm sau đó, và cái được khảo sát bởi tâm thức.
Và niệm của con cũng sẽ không dính mắc vào cái được thấy, cái được nghe, cái được cảm thọ, cái được nhận biết, cái được tiếp cận, cái được truy tìm sau đó, và cái được khảo sát bởi tâm thức. (hết dịch tóm lược)
Đó là Bát Nhã Tâm Kinh, đó là Kinh Kim Cương, đó là Tổ Sư Thiền. Không phải gì khác.
MỘT PHÁP: KHÔNG TRỤ VÀO ĐÂU
Thử dò thêm. Theo Kinh Kim Cương, thì học nhân giữ được tâm vô sở trụ, nghĩa là không trụ tâm vào đâu cả, nghĩa là không dính mắc tâm vào đâu cả, là đang tu tập pháp hành cốt tủy của Phật Pháp. Kinh Kim Cương thực sự không phải lý thuyết dài dòng, vì nếu lý thuyết dài dòng không thể nào làm cậu thiếu niên nhà quê Huệ Năng hốt nhiên đốn ngộ được, nghĩa là Kinh Kim Cương là kinh chỉ thẳng vào pháp hành cốt tủy.
Nếu chúng ta thắc mắc, không biết các vị sư Nam Tông nổi tiếng có nói tương tự như thế hay không. Chúng ta có thể nhờ Internet tìm giùm.
Chúng ta vào Google và gõ nhóm chữ:
“do not cling” ajahn
Chữ “ajahn” là “đại sư” trong tiếng Thái Lan. Nghĩa là, chúng ta muốn xem có sư Thái Lan nào nói tới nhóm chữ “đừng dính mắc gì hết” hay không.
Sẽ thấy ngay vị sư nổi tiếng Ajahn Chah của Thái Lan, với tác phẩm “A Still Forest Pool” (Mặt Hồ Tĩnh Lặng), vào xem, và trích nơi đây:
“The heart of the path is SO simple. No need for long explanations. Give up clinging to love and hate, just rest with things as they are. That is all I do in my own practice.
Do not try to become anything. Do not make yourself into anything. Do not be a meditator. Do not become enlightened. When you sit, let it be. When you walk, let it be. Grasp at nothing. Resist nothing.”
(www.dhammatalks.net/Books2/Ajahn_Chah_A_Still_Forest_Pool.htm, Part 1)
Dịch như sau: “Cốt tủy của pháp môn giải thoát RẤT là đơn giản. Không cần giảỉ thích dài dòng. Đừng dính mắc gì vào thương và ghét, hãy an nghỉ với các pháp như chúng là (tức, người dịch chú giải: hãy sống với cái đang là). Đó là tất cả những gì chính tôi thực tập.
Đừng tìm cách trở thành bất kỳ gì hết. Đừng biến chính bạn trở thành bất kỳ gì hết. Đừng là một thiền sư. Đừng tìm cách giác ngộ. Khi bạn ngồi, hãy tự nhiên ngồi. Khi bạn đi bộ, hãy tự nhiên đi bộ. Không nắm giữ gì hết. Không chống cự xua đẩy gì hết.” (hết dịch)
Tuyệt vời, đó là Kinh Kim Cương vậy. Đó là Tổ Sư Thiền vậy. Như thế, Phật Giáo Nam Tông và Bắc Tông đâu có gì khác nhau đâu, nếu giữ được ý chỉ để tâm như thế.
HÃY NHƯ GIỌT NƯỚC TRÊN LÁ SEN
Nếu bạn vẫn còn ngờ vực, chúng ta có thể dò tìm thêm. Lần này, chúng ta tìm Kinh trong Tạng Pali, theo trang web của các sư Thái Lan Access to Insight.
Hãy vào Google, và gõ hàng chữ:
(“not adhere” sutta site:accesstoinsight.org)
Nghĩa là, tìm trang nào có chữ “sutta” (Kinh) và có nhóm chữ đúng thứ tự “không dính mắc” trong trang accesstoinsight.org.
Sẽ thấy ngay trong Kinh Jara, thuộc nhóm Tiểu Bộ Kinh:
“Jara Sutta: Old Age”
Dịch từ tiếng Pali sang Anh văn bởi nhà sư Thanissaro Bhikkhu.
Tuyệt vời, y hệt Kinh Kim Cương, cũng nói “không một pháp nào để trụ.”
Nơi đây, Kinh này viết theo dạng thơ, chúng ta trích dịch Kinh Jara Sutta như sau:
A monk, living withdrawn,
enjoying a dwelling secluded:
they say it’s congenial for him
he who wouldn’t, in any realm, display self.
(Một vị sư, đang sống ẩn dật, vui với nơi ẩn dật: người ta nói ngài thích ứng dễ chịu; ở bất kỳ cảnh giới nào, ngài cũng sẽ không thấy có cái gì là tự ngã hiển lộ.)
Everywhere
the sage independent
holds nothing dear or undear.
(Ở mọi nơi, bậc trí tuệ độc lập này không thấy gì gọi là thương hay ghét.)
In him
lamentation & selfishness,
like water on a white lotus,
do not adhere.
(Trong ngài, thương tiếc và ích kỷ, y hệt như nước trên đóa sen trắng, không dính trụ vào đâu được.)
As a water bead on a lotus leaf,
as water on a red lily,
does not adhere,
(Như một giọt nước trên một lá sen, như nước trên một bông huệ đỏ, không dính trụ vào đâu.)
so the sage
does not adhere
to the seen, the heard, or the sensed;
(Do vậy, bậc trí tuệ này không dính trụ vào những cái được thấy, những cái được nghe, hay những cái được cảm thọ.)
for, cleansed,
he doesn’t construe
in connection with the seen, the heard, or the sensed.
(Bởi vì, đã thanh tịnh, ngài không bận tâm diễn giải phân tích những gì liên hệ tới những cái được thấy, những cái được nghe, những cái được cảm thọ;
In no other way
does he wish for purity,
for he neither takes on passion nor puts it away.
(Không hề có pháp môn nào khác để ngài mong muốn cho thanh tịnh, vì ngài không tham chấp lấy mà cũng không xua đuổi nó đi)
Đó là Kinh Kim Cương vậy.
VỀ DẪN NGUỒN
Trình bày vừa qua một số cách tiếp cận kho tàng Phật Học Anh Ngữ. Đọc tiếng Anh, thí dụ, như nêu trên ở các bản Kinh Pháp Cú, chúng ta sẽ thấy dịch sang Việt ngữ rất là khó, và không hoàn toàn chuyển nghĩa đầy đủ được. Chỉ có đối chiếu, mới thông suốt các nghĩa. Tương tự, khi đọc Tạng Pali bằng Anh ngữ, chúng ta thấy nhiều Kinh Bắc Tông đã nằm sẵn trong đó rồi.
Cần ghi chú, khi sử dụng các bản văn, cần tôn trọng tác quyền trí tuệ. Đó cũng là mình phải giữ giới vậy. Đa số tác phẩm tiếng Anh trên Internet đều ghi rõ tác quyền của ai. Một số tác giả và trang nhà cho phép in lại ra bản giấy, hay lưu hành bản online với điều kiện ghi tên tác giả và nguồn. Một số cho phổ biến với điều kiện “không thương mại,” nghĩa là chỉ ấn tống, không bán lấy tiền.
Đặc biệt, mỗi quốc gia đều có Luật Tác Quyền riêng. Luật của Hoa Kỳ về sử dụng tài liệu nguồn có tên là Luật Tác Quyền (Copyright Law) rất là phức tạp, và mơ hồ nữa, vì nói rằng cho phép chúng ta “fair use” – nghĩa là cho sử dụng vừa phải, hợp lý (muốn tìm hiểu điều khoản này, có thể vào Google.com, gõ nhóm chữ “fair use clause”). Thực tế, nếu không cho copy để dẫn nguồn, sẽ không có đại học Mỹ nào thực hiện việc nghiên cứu nổi. Vì người đi sau là phải dựa vào kiến thức và khám phá của người đi trước.
Luật bản quyền trí tuệ rất phức tạp, được diễn giải tùy trường hợp cụ thể. Thí dụ, có những bài lý luận, phê bình trên các tạp chí văn học Mỹ khi trích dẫn, đã copy cả đoạn vài trăm chữ, tất nhiên là có ghi nguồn, nhưng không bị xem là vi phạm. Nhưng một ca khúc, hay một bản hòa âm, chỉ copy có một dòng nhạc là cũng bị phạt.
Những bản tin trên đài BBC, VOA, RFI, RFA hiện nay đa số đều dịch từ tin tiếng Anh, tiếng Pháp… và không ai bị đòi tiền tác quyền, bởi vì họ đã dịch ra Việt ngữ, và không đem bán các bản tin tiếng Anh, tiếng Pháp. Đặc biệt, nhiều bản tin của Xinhua, UPI, RTT, MarketWatch là viết lại từ các bản tin từ nguồn khác. Kể cả AP, Reuters, AFP cũng thường trích dẫn, viết theo và soạn tin lại từ các báo lớn như New York Times, Washington Post…
Việc nghiên cứu Phật Giáo cần dẫn nguồn còn do từ một thực tế nữa, là để độc giả kiểm chứng những gì mình viết ra. Nhất là cần cẩn trọng khi viết về những lời Đức Phật dạy.
Xin cảm ơn và chúc lành.
___________________________________________
Cư sĩ mọi thời
Vĩnh Hảo
Sau khi đạt được toàn giác, nếu Đức Phật không vận chuyển bánh xe Chánh Pháp lần đầu tiên tại vườn Nai, nếu bốn chúng đệ tử của ngài suốt 2500 năm qua không tiếp nhận, thực hành và truyền bá giáo lý, sẽ không có Phật giáo hiện hữu trên đời, và không có Phật Pháp để chúng ta học tập, hành trì ngày nay.
Không lâu khi Tăng đoàn mới thành lập với 60 thánh giả chứng đắc A-la-hán, Đức Phật đã có lần kêu gọi các vị này lên đường truyền bá chánh pháp với lời lẽ thật cảm động như sau:
“Này các Tỳ kheo!… hãy lên đường vì lợi lạc của nhiều người, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng lân mẫn đối với thế gian, vì lợi lạc, vì hạnh phúc của trời và người. Các ông hãy đi, nhưng đừng đi hai người cùng một hướng, hãy đi mỗi người một ngả, hãy truyền bá chánh pháp… Hãy phất lên ngọn cờ của bậc thiện trí, hãy truyền dạy giáo pháp cao siêu, hãy mang lại sự tốt đẹp cho người khác; được vậy, là các ông đã hoàn tất nhiệm vụ”.[1]
Lời dạy tha thiết này trở thành tuyên ngôn, là cương lĩnh, nêu rõ động cơ và mục đích của việc hoằng pháp.
MỤC ĐÍCH HOẰNG PHÁP
Không giống bất kỳ tôn giáo nào khác, người theo Phật truyền bá giáo lý không phải để được ban thưởng đời này hay đời sau, không phải để vinh danh Đức Phật hay thần linh nào, cũng không phải để mở rộng tổ chức Phật giáo với cơ sở và quần chúng đông đảo, hoặc mong mỏi Phật giáo trở thành độc tôn trong một quốc gia, hay trên toàn thế giới.
Động cơ hoằng pháp của Phật giáo là lòng lân mẫn đối với thế gian.
Mục đích hoằng pháp của Phật giáo rất đơn giản, nhưng tối quan trọng, và cảm động, đó là: vì lợi lạc, vì hạnh phúc của số đông, vì sự tốt đẹp cho người khác.
Hoằng pháp không phải là để đền ơn Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Hoằng pháp không phải vì đức tối thắng của Phật, không phải vì lẽ cao siêu của Pháp, cũng không phải vì tính thanh tịnh trang nghiêm của Tăng đoàn. Hoằng pháp là vì lợi ích, an lạc của chúng sanh. Chỉ có như thế; và đây là ý nghĩa cao đẹp nhất trong việc truyền bá của Phật giáo; mà cũng chính qua ý nghĩa này, Phật giáo mới đến với nhân loại bằng con đường hòa bình, khoan dung.
SỨ MỆNH HOẰNG PHÁP
Sứ mệnh hoằng pháp thật quan trọng, và không phải là việc riêng của người xuất gia. Chính người tại gia, ngay từ thời Phật cho đến nay, dù ở bất cứ quốc gia nào, thời đại nào, sinh hoạt trong giáo hội hay hệ phái nào, đã đóng một vai trò vô cùng trọng yếu trong tất cả các sinh hoạt của Phật giáo, trong đó tất nhiên phải kể đến hoằng pháp.
Theo cơ cấu hình thành bốn chúng đệ tử Phật, xuất gia có hai chúng (tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni) thì tại gia cũng có hai chúng (ưu-bà-tắc, ưu-bà-di), ngang bằng như nhau. Từ điểm này, không thể nói việc hoằng pháp là việc của Tăng Ni, còn cư sĩ tại gia chỉ là những kẻ hộ trì, hỗ trợ.
Đức Phật là kẻ đã hoàn toàn giải thoát, giác ngộ. Thực hành lời Phật dạy là nhắm vào mục tiêu giải thoát, giác ngộ như Phật. Trong thời kỳ không có Phật thì duyên may hãy còn Pháp, là kinh điển, giáo lý do Phật dạy được ghi chép, truyền lại. Pháp ấy, nếu không có hàng Tăng Ni xuất gia giốc trọn cuộc đời để hành trì và truyền đạt thì chỉ là học thuyết trên sách vở, không thể tồn tại như một nền giáo lý thực tiễn sống động, mang lại lợi ích an lạc cho nhân loại suốt hơn 25 thế kỷ qua. Đây là nền tảng để từ đó Tam Bảo được hình thành như là biểu tượng nương tựa tâm linh và cũng là mục tiêu hướng đến của người theo Phật.
Nhưng ai là đối tượng để Tăng Ni truyền đạt Phật Pháp? – Chính là những người cư sĩ, những người tại gia theo Phật.
Những người cư sĩ đón nhận Phật Pháp ở đâu, khi nào? – Từ nơi tu viện, chùa chiền, tịnh xá, các đạo tràng và những trụ xứ mà Tăng Ni có mặt; và vào những thời điểm ở các trụ xứ ấy có Tăng Ni thuyết pháp, giảng dạy giáo lý.
Nói như thế, có nghĩa rằng những ai có đến chùa gặp Tăng Ni hoặc nhằm vào thời thuyết giảng của Tăng Ni thì kẻ đó được truyền dạy Phật Pháp (bằng thân giáo hay khẩu giáo); còn ngoài ra, đều không có cơ hội đón nhận giáo lý Phật, và không thể nào là đối tượng cho việc hoằng pháp của Tăng Ni. Phật Pháp nếu chỉ được truyền bá theo cách ấy thì đã hoại diệt từ lâu rồi, không làm sao tồn tại đến ngày hôm nay.
Vì vậy, nên hiểu rằng hoằng pháp là trách nhiệm của bốn chúng, trong đó những vị xuất gia là những bậc liễu tri và chứng nghiệm Phật Pháp, truyền dạy Phật Pháp cho hàng cư sĩ tại gia, trong khi chính mỗi cư sĩ là người trực tiếp đem đạo vào đời, cải hóa gia đình và xã hội.
CƯ SĨ LÀ AI?
Theo định nghĩa phổ quát của các hệ phái Phật giáo, cư sĩ là người tại gia theo đạo Phật, đã quy y Tam Bảo, giữ năm giới và hộ trì Tam Bảo. Chữ cư sĩ được dịch nghĩa từ chữ gahapati trong tiếng Pali (phiên âm là già-la-việt, hay ca-la-việt); đồng nghĩa với từ upāsaka (ưu-bà-tắc), upāsikā (ưu-bà-di), dịch nghĩa phổ thông là cận-sự nam và cận-sự nữ (những người thân cận hộ trì Tam Bảo). Các từ thông dụng khác trong tiếng Việt là phật-tử (con Phật), thiện nam, thiện nữ, thí chủ, đàn-việt (danapati), tín chủ, v.v… Chữ cư sĩ trải qua thời gian, mặc nhiên được xem là từ ngữ phổ thông nhất có thể nói lên tính chất cốt lõi của người tại gia theo Phật.
Tính chất ấy được tìm thấy trong kinh Tăng Chi Bộ, phần “Thích tử Mahànàma”. Ở đây Đức Phật trả lời Mahànàma câu hỏi thế nào là người (nam) cư sĩ, thế nào là cư sĩ giữ giới, và thế nào là cư sĩ thực hành tự lợi, lợi tha.
“Này Mahànàma, khi nào quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, cho đến như vậy là người nam cư sĩ.”
“Này, Mahànàma, khi nào người nam cư sĩ từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu, cho đến như vậy, là người nam cư sĩ giữ giới.”
“Này Mahànàma, khi nào nam cư sĩ tự mình thành tựu lòng tin và khích lệ người khác thành tựu lòng tin; khi nào tự mình giữ giới và khích lệ người khác giữ giới; khi nào tự mình bố thí và khích lệ người khác bố thí; khi nào tự mình muốn đi đến yết kiến các Tỷ-kheo và khích lệ người khác đi đến yết kiến các Tỷ-kheo; khi nào tự mình muốn nghe diệu pháp và khích lệ người khác nghe diệu pháp; khi nào tự mình thọ trì những pháp đã được nghe và khích lệ người khác thọ trì những pháp đã được nghe; khi nào tự mình suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì và khích lệ người khác suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì; sau khi tự mình biết nghĩa, biết pháp, thực hiện pháp đúng Chánh pháp, khích lệ người khác sau khi biết nghĩa biết pháp, thực hiện pháp đúng Chánh pháp. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là nam cư sĩ thực hành vì tự lợi và lợi tha.”[i]
Theo đoạn kinh trên, một cư sĩ lý tưởng là người phật-tử tại gia có đầy đủ tín, giới và thí.
Tín là lòng tin nơi Phật, Pháp và Tăng. Từ sự hiểu biết, quí kính và tín phụng Phật, Pháp, Tăng, người cư sĩ phát nguyện quy y Tam Bảo, chọn Đức Phật làm bậc thầy tối thượng biểu trưng cho giải thoát giác ngộ; chọn sự học hỏi, thực hành và truyền bá Chánh Pháp làm lý tưởng sống; và chọn Tăng đoàn làm những bậc thầy cao cả, thay mặt Đức Phật hướng dẫn con đường tiến đến giải thoát giác ngộ.
Giới của người cư sĩ tại gia là năm giới, tức năm điều bảo vệ con người tránh xa các việc làm tổn hại đến mình và chúng sanh khác: từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cắp, từ bỏ tà hạnh, từ bỏ nói dối và từ bỏ say sưa, nghiện ngập. Giới (sìla) là học xứ (điều cần học và thực hành), là những điều có khả năng bảo vệ mình tránh những nghiệp xấu-ác. Giới không phải là điều răn cấm cứng nhắc như thói quen suy nghĩ của nhiều người. Cư sĩ tự nguyện quy y Tam Bảo thì cũng tự nguyện giữ giới khi hiểu rõ rằng việc giữ giới sẽ bảo vệ đức hạnh của mình và tạo đời sống an vui, hòa hợp với những người chung quanh. Cư sĩ có thể tùy theo căn cơ và hoàn cảnh của mình mà phát nguyện giữ thêm các hạnh lành hoặc giới khác như thập thiện nghiệp đạo, bồ-tát (tại gia); nhưng năm giới là căn bản cần giữ gìn để bắt đầu một đời sống lý tưởng của người theo Phật.
Thí là việc bố thí, cúng dường. Thí ở đây không giới hạn trong việc hộ trì Tam Bảo, góp phần in kinh, tô tượng, đúc chuông, xây chùa, mà còn là thiện ý chia sớt, san sẻ với người khác từ tài vật (tài thí), kiến thức về đời sống và Phật Pháp (pháp thí), cho đến sự bình an, không sợ hãi (vô úy thí). Trên căn bản của nhân-quả, bố thí mang lại phước báo cho người thực hành, do đó, cư sĩ nên thực hiện để tạo thuận duyên cho việc tu tập của mình và tha nhân. Ngoài phước báo tất phải gặt hái ở đời này hay đời sau, bố thí còn là phương thức nhằm xả bỏ tâm tham, buông dần những chấp thủ của mình đối với các ràng buộc của đời sống, trước mắt là qua những gì mình sở hữu (ngã sở).
VAI TRÒ CỦA CƯ SĨ TRONG VIỆC HOẰNG PHÁP
Định danh chi tiết và có tính cách điển chương như trên là để nhận dạng nhân cách đặc biệt của cư sĩ. Nói chung, cư sĩ là người tại gia phát nguyện quy y Tam Bảo, giữ giới, thực hành bố thí, học và thực hành Phật Pháp trong đời sống hàng ngày để lợi mình, lợi người.
Theo ý nghĩa của hoằng pháp là duy trì và truyền bá giáo lý vi diệu của Phật, các yếu tố nêu trên của người cư sĩ, nếu thực hiện đúng mức thì đều là việc hoằng pháp.
- Quy y Tam Bảo chính là hoằng pháp: Trở về nương tựa Phật, tin nơi Phật tánh sẵn có của mình và lấy việc thành Phật làm cứu cánh tu học; trở về nương tựa Pháp, tin tưởng giáo lý của Phật có khả năng giải thoát khổ đau, đem lại an vui hạnh phúc cho mình và cho người; trở về nương tựa Tăng, tin tưởng Tăng là đoàn thể xuất gia đạo hạnh, dấn mình trên con đường của Phật và có kinh nghiệm dẫn dắt mình đi theo con đường đó một cách vững chắc. Nương tựa và tin tưởng sâu sắc như vậy, tự thân người cư sĩ kiên trì giữ đạo, học đạo, khích lệ người thân làm theo. Pháp Phật nhờ vậy mà được tồn tại và truyền rộng.
- Giữ giới chính là hoằng pháp: Việc giữ giới của cư sĩ, tức tự nguyện từ bỏ những điều tiêu cực có thể gây nên rối loạn, phiền não trong đời sống gia đình và xã hội, tạo nên phẩm cách trong sáng của người đức hạnh, khiến cho kẻ khác tin tưởng, quí trọng và noi gương. Giữ năm giới không những là tự rèn luyện, trau dồi phẩm hạnh của mình mà còn là bài học thân giáo, khẩu giáo đối với tha nhân. Ảnh hưởng của Pháp Phật có thể được nhận xét và đón nhận trực tiếp qua nhân cách của người cư sĩ giữ gìn năm giới.
- Thực hành bố thí chính là hoằng pháp: Trong khi giữ giới là tránh xa những điều tổn hại kẻ khác (không làm các việc ác) thì bố thí là hành động cụ thể nhất để mang lại lợi ích cho tha nhân (nên làm các việc lành)[2]. Bố thí đứng hàng đầu trong tứ nhiếp pháp[3] mà Phật dạy cho hàng cư sĩ dấn thân vào đời, cải hóa xã hội; và cũng đứng hàng đầu trong lục độ[4]. Điều này cho thấy, bố thí không phải là việc hành thiện bình thường mà chính là pháp môn tu, là phương tiện thiện xảo của hàng bồ-tát nhằm cứu độ và cảm hóa chúng sanh. Về mặt tự lợi, bố thí để diệt trừ tâm tham đắm chấp thủ, cởi bỏ dần sự chấp ngã (như đã nói ở trước); về mặt lợi tha, bố thí để cứu nạn đói khổ, thiếu thốn của tha nhân về phương diện tinh thần cũng như vật chất.
Vậy, qua tín, giới và thí nói trên, cư sĩ đã mặc nhiên thực hiện việc hoằng pháp trong đời sống hàng ngày. Nói theo ngôn ngữ thông tục, vai trò của cư sĩ là vai trò của người trực tiếp giữ đạo và truyền đạo.
Đạo, nếu không giữ, sẽ mất; đã mất, lấy đâu mà truyền. Cho nên, cá nhân mỗi cư sĩ có thể quyết định sự hưng-suy, còn-mất của Phật Pháp ngay trong gia đình của mình. Tăng Ni truyền dạy Phật Pháp cho cư sĩ nơi giảng tòa với thời gian giới hạn, nhất định; và để giữ cho Phật Pháp được lưu chuyển trong nhân gian, chính cư sĩ là những kẻ phải thường trực đối diện và phấn đấu để vượt qua những lôi kéo, quyến dụ của tài lợi, sắc đẹp, danh vọng, hoặc ngay cả sự áp bức, đe dọa của cuộc đời, của ngoại đạo, tà giáo và ác đảng.
Cho nên, có thể nói rằng trong việc đem đạo vào đời, truyền bá chánh pháp, Tăng Ni gián tiếp, cư sĩ trực tiếp. Trực tiếp ở đây là trong 24 giờ, ngày và đêm, người cư sĩ sống và tiếp cận với con người trong gia đình và xã hội, trải nghiệm những khổ đau, hạnh phúc, phiền não, an lạc, những được-mất, hơn-thua, vinh-nhục… bằng cả thân và tâm của mình. Đời người cư sĩ, do vậy, là một cuộc dấn thân, trắc nghiệm sở tri và nội lực tu học của mình ngay trong kiếp nhân sinh vô thường, thống khổ. Chính cuộc dấn thân ấy là giữ đạo, truyền đạo; là vai trò hoằng pháp cao đẹp của cư sĩ.
CƯ SĨ MỌI THỜI
Theo tài liệu lịch sử cũng như trong thực tế, hàng cư sĩ đã có những đóng góp lớn lao và tích cực hơn trong việc hoằng pháp chứ không phải chỉ qua những gì trình bày ở trước. Một số cư sĩ có thể thuyết giảng hoặc viết sách biên khảo về giáo lý Phật, hoặc góp phần hoằng pháp qua văn học nghệ thuật. Trong một số trường hợp, cư sĩ là thầy dạy của các trường Phật học chuyên khoa dành cho Tăng Ni. Ngoài ra, hình thức cư sĩ của hầu hết các vị bồ-tát trong kinh điển Đại thừa (Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Duy Ma Cật, Thắng Man, Thiện Tài…) cũng cho thấy vai trò cư sĩ không phải là nhỏ trong công cuộc hoằng pháp, cứu độ chúng sanh.
Trong quá khứ, không thiếu các cư sĩ nổi danh thời Phật như vua Ba-tư-nặc (Pasenadi), trưởng giả Cấp-cô-độc (Anāthapiṇḍika), tín nữ Tỳ-xá-khư (Visākhā); sau thời Phật, có cư sĩ vĩ đại A Dục vương (Ashoka); ở Trung Hoa có cư sĩ quyền uy như Lương Vũ Đế, có cư sĩ là học giả uyên thâm như Lương Khải Siêu; ở Việt Nam thời Lý-Trần có các cư sĩ “triều đình” như Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, thời hậu-Lê có cư sĩ Nguyễn Trãi, thời Trịnh-Nguyễn có cư sĩ Ngô Thời Nhậm, Nguyễn Du, thời cận đại và hiện đại có các cư sĩ danh tiếng là giáo sư, học giả, nhà văn như Lê Đình Thám, Mai Thọ Truyền, Thiều Chửu, Đoàn Trung Còn, Trúc Thiên, Nhất Linh, Nghiêm Xuân Hồng, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn…; cũng không thể không nhắc đến các cư sĩ tây phương cận đại như Edwin Arnold, Christmas Humphreys, E. Conze,… và các cư sĩ tiếng tăm lẫy lừng trên màn bạc sân khấu hiện nay tại Hoa Kỳ như Richard Gere, Steven Segal, Tina Turner, Oliver Stone, Orlando Bloom…
Mỗi người cư sĩ, từ xưa đến nay, khắp các quốc gia trên thế giới, đã tùy theo hoàn cảnh và căn trí của mình mà đến với Phật giáo, thực hành giáo lý, góp phần hoằng pháp trong khả năng riêng, bằng những phương thức khác nhau, qua các ngôn ngữ và văn hóa khác nhau. Nhưng đâu là điểm đồng nhất của hàng cư sĩ mọi thời đại, mọi quốc độ?
Có hai điểm tương đồng đáng lưu ý ở đây: một là, cư sĩ theo nhân duyên mà đến với Phật, trong một tâm thức tự do, tự nguyện, không hề có sự bó buộc, cưỡng ép; hai là, cũng với tâm thức tự do, cư sĩ phát nguyện quy y Tam Bảo (với lễ nghi hoặc chỉ bằng tâm niệm).
Do tự nguyện mà nghi thức quy y Tam Bảo cũng là một chọn lựa, không phải là điều kiện hay qui định.
Kinh điển ghi chép nhiều cư sĩ đã chứng được thánh quả khi chỉ một lần nghe Phật thuyết pháp, và hầu hết những vị này phát nguyện quy y Tam Bảo sau khi giác ngộ. Trưởng giả Úc-già (Ugga) trong Trung A Hàm là một điển hình[5]. Điểm này cho thấy vấn đề chứng thánh, giác ngộ, không tùy thuộc vào việc quy y Tam Bảo mà hệ trọng nơi căn cơ và trí tuệ của mỗi người khi tiếp nhận và thực hành giáo pháp. Nhưng cũng chính điểm này xác minh tầm quan trọng của việc quy y Tam Bảo: giác ngộ, chứng quả rồi, các vị thánh cư sĩ ngày xưa vẫn phải phát nguyện quy y Tam Bảo.
Hãy tạm gác qua hình thức của những buổi lễ trao truyền Tam Quy – Ngũ Giới dưới sự chứng minh của đại diện Tăng bảo. Hãy tạm gác qua những phái điệp Quy Y ghi tên và pháp danh của những người hiểu hoặc không hiểu Phật Pháp, hành hoặc không hành Phật Pháp. Các lễ nghi và hình thức này, có người được truyền thọ, có người không; có khi được truyền thọ mà lại không hề quy kính Tam Bảo; có khi chưa hề tiếp thọ mà lại một lòng qui hướng Phật, Pháp, Tăng.
Ý nghĩa chân thực của việc quy y Tam Bảo là, với lòng hoan hỷ, kính mộ, với sự thông tuệ, tự do, với tâm thuần nhất, dũng mãnh hướng về mục tiêu tối hậu là giải thoát giác ngộ (Phật), người cư sĩ khẳng định chính mình như một con người mới, được sinh ra từ giáo lý thâm diệu (Pháp), quyết định đặt đời sống của mình trên đạo lộ Trí Tuệ, Từ Bi, dưới sự dìu dắt của những bậc thầy xuất gia cao quý (Tăng).
Trong tinh thần tự nguyện và ý nghĩa quy y Tam Bảo như thế, cư sĩ mọi thời đại, mọi nơi chốn, có chung một tiếng nói, một niềm tin, một con đường cao đẹp; và chỉ những người cư sĩ như thế mới xứng đáng là kẻ “thừa tự Chánh Pháp”[6] của Thế Tôn.
[1] Mahàvagga – Đại Phẩm, Luật tạng, chương Trọng yếu, tụng phẩm thứ 2, đoạn 32. Xem bản dịch của Indacanda Nguyệt Thiên, http://www.budsas.org/uni/u-luat-daipham/dp-00.htm.
[2] “Không làm các điều ác, nên làm các điều lành”, Kinh Pháp Cú, câu 18
[3] Bốn phương thức cảm hóa chúng sanh, gồm có: bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.
[4] Sáu pháp ba-la-mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
[5] Trung A Hàm, phẩm Vị Tằng Hữu Pháp, kinh Úc-già Trưởng giả (I), Tuệ Sỹ dịch, phiên bản điện tử: http://www.quangduc.com/kinhdien/Trungaham/trungah04-38.html
[6] Trung Bộ Kinh, Kinh Bất Đoạn – Anupada Sutta, HT. Thích Minh Châu dịch.
___________________________________________
Phần hai:
ÐƯỜNG HƯỚNG GIÁO DỤC
của GIA ÐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM TẠI HOA KỲ
___________________________________________
Vai trò giáo dục và hướng đi
của Gia Ðình Phật Tử Việt Nam
Tại Hoa Kỳ
Thích Tịnh Từ
VÀI NHẬN ÐỊNH:
Giáo dục gắn liền với tuổi trẻ, gắn liền với con người và xã hội. Bằng vào phương pháp giáo dục mà con người có sự cảm thông, đối thoại, hợp tác, sống chung và tạo nên phúc lạc cho cá nhân, gia đình và thế giới.
Gia Ðình Phật Tử là một tổ chức tiêu biểu cho đối tượng giáo dục và mang sứ mệnh giáo dục đã có mặt trong lòng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, tiền thân Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất suốt trong quá trình sinh hoạt năm mươi năm qua. Năm mươi năm giáo dục, trưởng thành, đóng góp, hy sinh và cùng chịu bao nỗi thăng trầm của quê hương, dân tộc và Giáo Hội.
Nói giáo dục gắn liền với tuổi trẻ, gắn liền với con người và xã hội là nói đến ý hướng giáo dục, phương pháp giáo dục thích nghi với con người, xã hội và thời đại mới. Thích nghi mà không mất gốc là không phụ bạc những kinh nghiệm máu xương của các bậc đàn anh và các thế hệ tiền bối. Ðường hướng giáo dục dù hay cách mấy của người xưa cũng như người nay mà không thích nghi với xã hội và con người thời đại thì tự nó bị bế tắc và đào thải. Ðường hướng giáo dục thích nghi là đường hướng giáo dục làm hiển lộ được nhu cầu thiết yếu của đời sống cơm áo, tình yêu thương, quyền làm người, tôn trọng nhân phẩm, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, quyền phụng sự đức tin tôn giáo, quyền sáng tạo, quyền mở mang đời sống bằng kinh nghiệm cá nhân và tập thể.
Nhà giáo dục tin tưởng mãnh liệt rằng trong mỗi con người đều có khả năng trí – tuệ vô tận. Khả năng ấy bằng vào phương pháp giáo dục và thiền định mà con người có thể phát triển và tiến bộ không ngừng về mọi phương diện. Quên mất nhận thức và nguyên tắc căn bản này thì mọi đường hướng giáo dục trở nên máy móc, xung đột và phá sản. Phá sản toàn bộ nền giáo dục nhân bản và tình yêu con người bảo vệ môi sinh và sự bình an của đồng loại. Phá sản toàn bộ nền giáo dục nhân bản, cũng có nghĩa là bôi lọ chiếm đoạt. Ðây là nguyên nhân sâu xa của mọi cuộc chiến tranh, thù hận, chém giết, gây tang tóc và điêu linh trên khắp mặt trái đất.
Hướng đi của Gia Ðình Phật Tử vĩnh viễn là hướng đi của người tỉnh thức, hướng đi về phía nhân bản: dẫn đạo con người và tuổi trẻ trau dồi trí – tuệ, tình thương và khám phá con người tốt đẹp của chính mình để làm tốt đẹp cho cuộc đời. Hướng đi ấy là hướng đi phụng sự chân lý, dốc hết nghị lực và vận chuyển khả năng không ngừng làm cho trí tuệ và tình yêu thương hiện thực trong con người, trong gia đình, xã hội và trong toàn bộ ngõ ngách của đời sống.
Thanh niên Tất – Ðạt – Ða và con người Ðại Bi, Ðại Trí và Ðại Dũng đã đi về hướng đó: tự mình giáo dục chính mình và tự khám phá ra một quy trình giáo dục độc đáo, mới mẻ, đầy tính chất nhân bản, vì đồng loại, vì tình yêu và phúc lạc cho tất cả. Ðó là con đường trở về khám phá bản lai diện mục cá thể để tận hiến sự tốt đẹp, mầu nhiệm của cá thể cho tập thể. Ðó là con đường giáo dục thiền định, giáo dục nhân tính mà thanh niên Tất – Ðạt – Ða đã lưu lại cho con người hôm nay và các thế hệ mai sau.
Ðào tạo nhân sự, phát triển tổ chức, un đúc chí nguyện phục vụ và thiết bị chương trình tu học là bốn đề án bao hàm ý nghĩa giáo dục và hướng đi hiện nay của tổ chức Gia Ðình Phật Tử Việt Nam ở Hải Ngoại. Nói hướng đi hiện nay là nhấn mạnh sự lưu tâm và kiện toàn hướng đi ấy ngay trong hoàn cảnh mới của từng xã hội và thời đại, chứ hướng đi ấy đã được thiết lập và xây dựng trên năm mươi năm qua. Dù cho hoàn cảnh chung quanh và trước mặt có chông gai cách mấy, lập trường và hướng đi của Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử vẫn muôn đời không thay đổi, không chùn bước. Nghĩa là Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử vẫn mãi mãi tiếp tục, hành trình trên hướng đi của người tỉnh thức từng bước kiên định, vững chãi và nhẫn nại. Hướng đi nhân bản – giáo dục tuổi trẻ trau dồi đạo đức, yêu thương và thể hiện chí nguyện phụng sự con người, quê hương và đạo pháp.
ÐÀO TẠO NHÂN SỰ:
Ðó là niềm thao thức và công tác ưu tiên bậc nhất trong toàn triệt nỗ lực của Ban Hướng Dẫn và của Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử hiện nay. Sự phát triển lớn mạnh và tồn tại lâu dài của các đơn vị Gia Ðình ở mỗi địa phương là tùy thuộc khả năng nhân sự ở các cấp Huynh Trưởng. Huynh Trưởng hướng dẫn và cầm đoàn của mỗi đơn vị Gia Ðình thiếu khả năng hoặc không có đủ nhân sự cung cấp điều khiển các ngành thì đơn vị Gia Ðình ấy được thành lập nhưng sớm bị tan rã; tệ hại hơn nữa là có hình thức sinh hoạt mà không thể hiện được hướng đi cao cả, sáng đẹp của Gia Ðình Phật Tử. Ðây là một hiện trạng thương tâm, nên lưu ý, đáng thảo luận và giải quyết kịp thời. Chúng tôi xin được nêu ra đây vài đề nghị với toàn Ban Hướng Dẫn, các Huynh Trưởng kỳ cựu, các tân Huynh Trưởng quý vị Tăng Ni, các bậc phụ huynh, những bạn hữu, ân nhân và bất cứ những ai thương mến đến Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử:
- Soạn thảo và ấn bản một tập tài liệu cơ bản bằng tiếng Việt và tiếng Mỹ, nói rõ mục đích, hướng đi và nội dung sinh hoạt của Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử trong môi trường xã hội mới để phổ biến rộng rãi đến với quý Hội Phật Giáo, các giới đạo hữu, con em và các bạn trẻ.
- Tổ chức các buổi thuyết trình và thảo luận tài liệu ấy ở các chùa, các đơn vị hạ tầng Giáo Hội, các đơn vị Gia Ðình Phật Tử và các cộng đồng sinh hoạt thanh niên, sinh viên và học sinh thuộc con em phật tử.
- Soạn thảo tài liệu cơ bản và mới mẻ trong việc giảng dạy Phật Pháp; các tài liệu sinh hoạt chuyên môn cho các ngành đoàn sinh và các cấp Huynh Trưởng. Các tài liệu phải soạn bằng tiếng Việt và Tiếng Mỹ.
- Các mẩu chuyện Ðạo, các bài ca chính thức của Gia Ðình và cộng đồng phải được sửa soạn và ấn bản bằng tiếng Việt và tiếng Mỹ. 5. Trừ các lớp học tiếng Việt và văn hóa Việt Nam, còn tất cả các buổi học tập, sinh hoạt khác với đoàn sinh, các cấp Huynh Trưởng luôn luôn dùng cả tiếng Việt lẫn tiếng Mỹ để thích nghi với đoàn sinh, làm giảm mặc cảm về tiếng Việt non yếu của các em.
- Tài liệu hướng dẫn các cấp Huynh Trưởng bằng hai thứ tiếng Việt và Mỹ phải trình bày ngắn gọn, dễ hiểu và thực tế, được phân phối về các đơn vị học tập kỹ lưỡng. Các kỳ tổ chức những trại huấn luyện là chỉ để hạch tuyển và tăng cấp, số lớn thì giờ còn lại phải nhắm vào các sinh hoạt chung, kết vòng thân ái trao đổi kinh nghiệm cầm đoàn và chia sẻ những khó khăn ở mỗi địa phương.
- Phải thực tế trong việc mời quý Thầy đến giảng dạy trong các khóa huấn luyện Huynh Trưởng. Nên mời các Thầy có khả năng và kinh nghiệm chuyên môn trong việc giảng dạy Huynh Trưởng, chớ chú trọng hình thức Chứng Minh và biểu tỏ tình cảm bề ngoài đã trở thành tiền lệ xưa nay.
- Huynh Trưởng mới, kể cả đoàn sinh các ngành Thanh Thiếu và Oanh Vũ đều có trình độ văn hóa và kiến thức học đường khá vững chãi, nên việc đào luyện các em có khả năng chuyên môn và cầm đoàn rất nhanh, nếu những tài liệu huấn luyện các cấp Huynh Trưởng được soạn thảo chu đáo và phối trí chương trình hàm thụ có hoạch định chu toàn.
- Mặc tư cách, đạo hạnh và kiến thức Phật Pháp của các cấp Huynh Trưởng muốn được vững chãi và có chiều sâu, điều kiện tốt nhất là thưa thỉnh các vị Tăng Ni hướng dẫn các khóa tu bên cạnh sự điều hợp của các Ban Hướng Dẫn Miền và Tỉnh Thị.
- Các bậc tôn túc Tăng Ni và Chư Phật Tử mọi giới đều ý thức một cách sâu sắc: Các cấp Huynh Trưởng Gia Ðình Phật Tử là nhân sự tốt của Giáo Hội, của Ðại Gia Ðình Phật Giáo; là những nhà giáo dục khiêm tốn, không một đồng lương dính túi, trọn đời chỉ biết quên mình, hy sinh cho Tổ Chức, cho lý tưởng giáo dục và tình thương yêu tuổi trẻ.
- Các bậc Tôn Túc Tăng Ni và Chư Phật Tử mọi giới cũng đều ý thức một cách sâu sắc: Công việc đào luyện các cấp Huynh Trưởng không phải chỉ để phát triển và duy trì sự tồn tại của Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử có tính cách biệt lập, mà còn có sự liên hệ và ảnh hưởng vô cùng lớn lao đối với nền tảng hạnh phúc gia đình và đối với vận mệnh của Giáo Hội; đối với sự tồn vong của Ðạo Pháp, Dân Tộc và Truyền Thống Văn Hóa ngàn đời của tổ tiên.
- Vì vậy, tất cả chúng ta, bằng mọi sự tác trợ tinh thần, bảo hộ tài chánh, góp phần công sức, thời giờ và khả năng chuyên môn cúng hiến vào chương trình huấn luyện nhân sự, đào tạo các cấp Huynh Trưởng Gia Ðình Phật Tử là một đóng góp cụ thể, cao quý và vô cùng cần thiết, sáng giá trong vai trò giáo dục phục vụ đạo pháp, quê hương và dân tộc.
PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC:
Chương trình đào tạo nhân sự, huấn luyện các cấp Huynh Trưởng có kết quả tốt đã là một thành công trên phương diện phát triển tổ chức. Các Huynh Trưởng giỏi, có tác phong đạo đức, có kiến thức và tháo vát thì không phải chỉ có khả năng cầm đoàn mà còn có thiện chí và khuynh hướng làm cho đoàn và đơn vị Gia Ðình mỗi ngày càng gia tăng, đoàn sinh, làm cho nội dung sinh hoạt của gia đình có phẩm chất, tạo được sự thương yêu, tin tưởng của quý vị Tăng Ni lãnh đạo tinh thần, quý Bác trong các Ban Quản Trị Hội Phật Giáo và các bậc phụ huynh sau đây là vài nguyên tắc và vài gợi ý trong việc phát triển các đơn vị và Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử:
- Ban Hướng Dẫn Trung Ương hoặc các Miền viết một Tâm Thư và kèm theo phiếu thỉnh ý kiến về việc phát triển tổ chức Gia Ðình Phật Tử ở Hải Ngoại gởi đến các bậc Tôn Ðức, các Cư Sĩ lão thành và các Thiện Hữu Tri Thức có kinh nghiệm trong quá trình giáo dục và sinh hoạt với các Tổ Chức Tuổi Trẻ.
- Tiến tới việc vận động thành lập một trụ sở Trung Ương Ban Hướng Dẫn Gia Ðình Phật Tử; lập ban soạn thảo đề án và thực hiện đề án văn hóa, giáo dục tuổi trẻ, đồng thời xin tiền trợ cấp của chính phủ tiểu bang và liên bang như một số các tổ chức văn hóa, từ thiện bất vụ lợi đã làm bấy lâu.
- Tổ chức Mùa Lễ Tưởng Niệm Người sáng lập và các cấp quá cố Huynh Trưởng đã hy sinh cuộc đời cho tổ chức Gia Ðình Phật Tử mỗi năm một lần vào đầu mùa hè, trước rằm tháng Bảy Âm Lịch, nhằm mục đích:
– Truy niệm ân xưa thắp sáng nghìn trùng;
– Soi gương người mà thấy bóng dáng của ta;
– Nung nấu ý chí và đại nguyện phục vụ lý tưởng đến với các cấp Huynh Trưởng mới;
– Gieo ý thức, niềm tin và nguồn lực tươi sáng màu Lam đến với toàn thể đoàn sinh;
– Tạo cơ hội cho các cấp Cựu Huynh Trưởng và Cựu Ðoàn Sinh muôn phương được họp mặt;
– Cung thỉnh các bậc Tôn Túc Tăng Ni trong quý Giáo Hội đến nguyện cầu, trai tăng, ban giáo từ và chia sẻ mọi khó khăn vui buồn với Tổ Chức;
– Ðạt mời đại diện Ban Quản Trị Quý Hội Phật Giáo, Ban Bảo Trợ quý Chùa, quý Bác Gia Trưởng, quý Ðạo Hữu và mọi giới Phụ Huynh đến dự lễ để Ban Hướng Dẫn có dịp bày tỏ lòng tri ân sâu xa đối với quý vị đã trực tiếp, gián tiếp dưỡng nuôi Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử. Mặc khác, Ban Hướng Dẫn cũng trình bày những khó khăn chung của Tổ Chức và của các đơn vị Gia Ðình Phật Tử để ai nấy cùng cảm thông, tha thứ, quan tâm và tận tình nâng đỡ mọi sinh hoạt của Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử.
Mùa Lễ Tưởng Niệm phải được trở thành Mùa Lễ Truyền Thống của Gia Ðình Phật Tử Việt Nam. Nghi Thức và nội dung sinh hoạt trong Mùa Lễ Tưởng Niệm phải được thể hiện trong một tầm vóc quy mô, phong phú. Vui tươi, sáng tạo nhằm thu hút người về tham dự, nhằm cổ võ hình thái sinh hoạt của tổ chức.
- Ít nhất là hai năm nên tổ chức Ðại Hội thi đua văn nghệ toàn quốc một lần, nhằm mục đích:
– Phát triển nghệ thuật và thiên tài của các đoàn sinh;
– Gây sự lưu tâm và trau dồi năng khiếu văn nghệ ở mỗi đơn vị và Miền;
– Khuyến khích sáng tác: Kịch phẩm, thi ca, viết nhạc, hội họa mang tính chất văn học, giáo dục và phụng đạo;
– Tạo sự quan tâm tham dự và chứng kiến những thành quả sinh hoạt Văn Mỹ Nghệ hướng thiện truyền bá đạo đức của Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử;
– Cổ động lạc quyên tài chánh và bán vé vào cửa gây quỹ cho Tổ Chức, bảo trợ sự nghèo khó của các đơn vị Gia Ðình Phật Tử ở quê nhà;
– Tuyển chọn và thu kết thêm những tài liệu sinh hoạt mới cho Tổ Chức;
– Phát hành và phổ biến rộng rãi các sinh hoạt của Tổ Chức qua phim ảnh để vừa gây quỹ, vừa giới thiệu hướng đi của Tổ Chức đến mọi giới quần chúng;
– Phần thưởng xuất sắc của các Ðơn Vị và Miền trúng tuyển trong Ðại Hội thi đua văn nghệ sẽ được sự bảo trợ của các Chư Vị Tôn Túc Tăng Ni, Ban Quản Trị, quý Hội Phật Giáo địa phương và quý Ân Nhân chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng, đây sẽ là một niềm vui lớn cho người trao và người nhận các phần thưởng danh dự ấy;
– Tác dụng và ảnh hưởng lớn nhất của Ðại Hội này là về khía cạnh tinh thần: Ý thức hợp tác, đóng góp bàn tay, khối óc và trách nhiệm một cách tích cực của những người trong và ngoài Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử;
– Ðại Hội thi đua văn nghệ cũng là động cơ hâm nóng, đốc thúc, gây ý thức sinh hoạt đoàn đội chăm chỉ, nỗ lực và cầu tiến của mỗi Miền, mỗi Ðơn Vị trong tổ chức Gia Ðình Phật Tử.
UN ÐÚC CHÍ NGUYỆN:
Thực hiện được những công việc trong phần phát triển Tổ Chức đã là yếu tố tác động tâm lý, un đúc chí nguyện phục vụ của các cấp Huynh Trưởng và mọi ngành Ðoàn Sinh. Un đúc chí nguyện phục vụ và truyền trao ý thức trách nhiệm cho những người kế thừa của bất cứ một Tổ Chức nào, một truyền thống sinh hoạt nào, không phải ở nơi một mớ lý thuyết được trình bày qua sách vở, kinh điển mà chính ngay ở nơi những tác phẩm sống bằng hành động cụ thể; bằng sự truyền đạt bởi trái tim, hơi thở, mắt thấy, tai nghe và bằng tất cả sự rung chuyển tận đáy tâm hồn của cả hai phía truyền đạt và tiếp nhận.
Ai cũng biết chí nguyện của những người sáng lập và xây dựng lý tưởng Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử là chí nguyện xua tan bản ngã, thu hồi bản ngã và triệt thoái bản ngã để có đời sống thênh thang, vị tha, cởi mở, tỉnh thức và hòa đồng. Hòa đồng để hiểu, để thương và để san sẻ kiến thức, kinh nghiệm. Niềm vui mà mình có được cho người, cho tuổi trẻ, cho những tâm hồn thiếu sự bình an. Giáo dục trong hướng đi của Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử là thiết lập chí nguyện đó, thực hiện chí nguyện đó và viên thành chí nguyện đó.
Trẻ thơ là con của Ba Mẹ nhưng cũng là con yêu của Dân Tộc, của Giáo Hội và của Nhân Loại. Do đó, thương yêu trẻ thơ, giáo dục tuổi trẻ trở thành người tốt cũng là thương yêu các bậc Cha Mẹ, thương yêu Dân Tộc, thương yêu Giáo Hội và thương yêu Nhân Loại. Cái tình thương yêu có căn nguyên, sâu thẳm và bền bỉ đó là cái tình nhân hậu, hồ trương và sinh tồn của con người sáng lập, xây dựng, theo đuổi và sống chết với lý tưởng Gia Ðình Phật Tử là chí nguyện được thế lập trên cái tình thắm thiết đó.
Có những người bàng quan nghĩ và nói, Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử là một đám đông con nít vô tư, hời hợt, và ham vui là một câu nói thiếu nghiêm túc, thiếu cẩn trọng và hoàn toàn thiếu sự hiểu biết về mục đích và các sinh hoạt giáo dục của tổ chức Gia Ðình Phật Tử.
Dù vậy, trong một đại gia đình có con đông, cháu đàn thì sự vụng dại, khuyết điểm của chúng đối với những người chung quanh là một điều rất thường xảy ra mà các bậc cha mẹ, các bậc hướng dẫn không bao giờ mong muốn. Các người có trách nhiệm chỉ thầm nguyện một lòng tận tụy dìu dắt con em và đồng thời khuyến thỉnh tuổi trẻ ngoan hiền, vì danh dự Tổ Chức, vì tâm nguyện phục vụ sự thật, phục vụ tình yêu thương rộng lớn mà hết lòng vâng lời người trên.
Cũng bằng vào chí nguyện và đại nguyện chung mà Ban Hướng Dẫn Trung Ương, toàn Miền và toàn bộ Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử tại Hoa Kỳ đã tận tụy nỗ lực trong công cuộc vận động Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam suốt trong nhiều năm qua tại Hải Ngoại. Bằng chứng hùng hồn và cụ thể nhất là sức mạnh ý chí tinh thần và nhân sự đoàn viên nòng cốt của Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử đã dâng hiến trọn vẹn tâm phúc, khả năng trái tim, đôi bàn tay làm việc đêm ngày trong kỳ Ðại Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ diễn ra suốt ba ngày 25,26,27 tháng 9 năm 1992 tại thành phố San Jose, tiểu bang California, Hoa Kỳ. Nhìn quang cảnh hợp mặt của Chư Tăng Ni, của trên một trăm đơn vị cơ sở Phật Giáo, của trên bốn trăm Ðại Biểu về tham dự Ðại Hội, còn có một khối lượng đông đảo Huynh Trưởng, Ðoàn Sinh Gia Ðình Phật Tử đồng phục màu lam tề chỉnh và hết lòng cáng đáng công việc trong Ðại HộI, trước những ngày chuẩn bị Ðại Hội và sẽ bền bỉ phụng sự Giáo Hội mãi mãi về sau những ngày Ðại Hội, quả là một niềm hãnh diện vô biên đối với Giáo Hội, đối với toàn bộ Tổ Chức Phật Giáo Việt Nam ở trong và ngoài nước.
Cũng bằng vào chí nguyện và tinh thần phụng sự Giáo Hội, giáo dục tuổi trẻ mà trong số các cấp Huynh Trưởng, Ðoàn Sinh Gia Ðình Phật Tử đã và sẽ có nhiều vị trở thành các bậc Xuất Gia lỗi lạc trong sứ mệnh hoằng truyền chánh pháp, như ngọn Hải Triều Tâm của thi sĩ Quách Ðàm:
Kết tình thiêng với màu Lam,
Chừ như đến lúc lên đàng xuất gia
Trầm luân cuộc lử ta – bà
Cẩu tâm rủ sạch sơn hà thừa dương
Chí lập gác lại vấn vương
Một giây tỉnh thức tình thương đầy tràn
Mỉm cười nhìn lại thế gian
Áo lam ủ trọn chiên đàn muôn nơi
Am vân nguyệt hiện sáng ngời
Một tâm chuyển động đất rời mới tinh.
THIẾT LẬP CHƯƠNG TRÌNH TU HỌC:
Trong truyền thống Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử đã có thiết lập chương trình tu học. Như mùa Bát Quan Trai, mùa Quán Niệm cho các cấp Huynh Trưởng cao, những khóa thuyết đàm giáo lý và trì tụng kinh văn. Thế nên ở đây, chúng tôi chỉ xin được khai triển thêm vài ý niệm và phương pháp tu học mong sao cho phù hợp với bối cảnh sinh hoạt hiện nay của Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử ở Hải Ngoại.
- Thiết lập chương trình và ấn định thời gian tu học trong năm cho các cấp Huynh Trưởng và đoàn sinh. Cụ thể hóa trong chương trình tu học có các phần:
– Học giáo lý căn bản và đào sâu phương thức ứng dụng giáo lý ấy trong đời sống bản thân gia đình và đoàn thể;
– Thực tập phương pháp thiền quán để trau dồi thân, miệng, ý cho trong sạch hầu làm hiển lộ khả năng trí tuệ và đạo đức đích thực trong con người Huynh Trưởng;
– Ðào sâu lãnh vực tâm học và nắm vững khoa tâm lý trị liệu để bổ sung cho kinh nghiệm cầm đoàn và trước hết là thiết lập đời sống hạnh phúc cho cá nhân và gia đình;
– Tạo cho các em đoàn sinh trong các Ngành có một vốn liếng Phật Pháp căn bản, có một đức tin Tam Bảo sâu sắc và có những phương cách sống đạo được bền bỉ trong mọi môi trường tiếp xúc.
– Về với các khóa tu, sống chung và thực tập đạo tỉnh thức với nhau vài ba hôm bên cạnh quý thầy Thiền chủ và Quý vị Tăng Ni hướng dẫn tinh thần là những dịp tốt để quý vị Tăng Ni được thương mến, được chia sẻ những kinh nghiệm tu học và đời sống an lạc cho tuổi trẻ;
– Lý do chư vị Tăng Ni và giữa Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử có một khoảng xa cách và đôi lúc gần như không có sự lưu tâm giáo dưỡng, bảo trợ là vì chúng ta không tạo được những môi trường sinh hoạt tu học có chiều sâu như những Khóa Tu Học.
- Sau mỗi mùa tu học, hay mỗi khóa tu học, tất cả các cấp Huynh Trưởng và đoàn sinh tham dự khóa tu chính thức sẽ được ban tổ chức cấp phát chứng chỉ trình độ Phật Pháp và hạnh kiểm nhằm:
– Bổ sung hóa cho chương trình đào luyện các cấp Huynh Trưởng; – Giúp các em đoàn sinh các Ngành có sự khích lệ thi đua tham dự các khóa tu học và sống với đời sống tỉnh thức trọn vẹn trong các khóa tu;
– Chứng tỏ cho Quý vị Tăng Ni, các bậc cha mẹ thấy rõ là Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử ngoài những hoạt động hữu ích giáo dục và chuyên môn khác, còn là một Tổ Chức hết sức chú trọng và tích cực trong việc trau dồi đạo đức tâm linh, tu học và nghiêm trì cần mẫn lời Phật dạy;
– Trưởng dưỡng cho tất cả các đoàn viên trong Gia Ðình Phật Tử có một nhận thức rõ ràng, kiên định và tin tưởng bền vững trong nhiệm vụ đem Ðạo vào Ðời ngay trong hiện tại và ngày mai;
- Các bậc cha mẹ nên hết lòng khuyến khích và bảo trợ tài chánh cho con em của mình có đủ điều kiện để đi tham dự các khóa tu học nhằm:
– Trau dồi kiến thức Phật Pháp, trưởng dưỡng nếp sống đạo đức và hạnh kiểm; – Giúp các em có cơ hội tìm lại giá trị tâm linh, nung đúc đức tin và nguồn mạch văn hóa truyền thống của Tổ Tiên;
– Ðược dịp tiếp xúc với quý vị Tăng Ni hướng dẫn tinh thần có đức độ, giới luật nghiêm mật, do đó các em có thể dễ dàng chuyển hóa được các tâm lý bất thiện, sửa đổi tánh tình và biết hiếu dưỡng sâu sắc đối với cha mẹ;
– Là Huynh Trưởng và đoàn sinh Gia Ðình Phật Tử, các em có được dịp quý báu để tu tập Phật Pháp và Thiền Ðịnh, hầu tạo được nếp sống an lạc, tỉnh thức cho bản thân cùng mang kinh nghiệm tu học về địa phương truyền đạt lại cho các đoàn sinh và Gia Ðình;
– Kết thân được nhiều bạn tốt, cùng đức tin, cùng chí hướng trong việc xây dựng hạnh phúc Gia Ðình và phụng sự Tam Bảo;
- Ðề đặc quý vị Tăng Ni ở quý Giáo Hội Miền luân phiên tổ chức các Khóa Tu Học theo tuần tự những địa điểm khác nhau để thích nghi việc thỉnh mời nhân sự vì các yếu tố tâm lý chung.
Nội dung và thời điểm các khóa tu:
– Chương trình khóa tu học do Tổng Vụ Giáo Dục Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ phối hợp với quý vị Tăng Ni trong Miền và ban tổ chức tại địa phương soạn thảo.
– Chương trình Khóa Tu Học sẽ được chú ý hướng dẫn năm điểm chính: Học giáo Pháp căn bản; học phương thức tu tập và hành trì Phật Pháp; Học phương thức ứng dụng Phật Pháp vào nếp sống hàng ngày; Học kỹ thuật truyền đạt Phật Pháp và nguyên tắc tổ chức các khóa tu học; Học và thảo luận những tham luận về Phật Giáo và Xã Hội Tây Phương.
– Thời điểm tổ chức khóa Tu Học là và dịp mùa hè và các ngày quốc lễ dài hạn;
– Các Khóa Tu Học có thể tổ chức cùng một thời gian, nhưng phân ra các địa điểm khác nhau;
– Lễ Khai Mạc và Bế Mạc các Khóa Tu Học, Ban Tổ Chức có thể mời đông đủ các giới Tăng Ni và Phật Tử địa phương tham dự;
– Lễ Bế Mạc Khóa Tu Học cũng là lễ phát chứng chỉ Phật Pháp và phát phần thưởng cho các khóa sinh xuất sắc về giáo lý, hạnh kiểm và sự chuyên cần trong việc tu học.
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Âu Châu, Chư vị Tăng Ni hằng năm có tổ chức các khóa tu học và mùa Hè cho các giới Thanh Niên, Sinh Viên, Học Sinh và Gia Ðình Phật Tử. Thời gian Khóa Tu Học kéo dài từ ba đến bốn tuần lễ. Mỗi Khóa Tu Học có từ ba đến năm trăm khóa sinh ghi tên tham dự và đặc biệt hầu hết các khóa sinh là tuổi trẻ. Ở Làng Hồng tại Pháp, dưới sự hướng dẫn của Thượng Tọa Nhất Hạnh, gần mười năm qua, trong mỗi mùa Hè đều có tổ chức một tháng tu học từ ngày 15 tháng bảy đến 15 tháng tám Dương Lịch cho mọi giới Phật Tử Việt Nam và ngoại quốc. Mỗi Khóa Tu Học ở đây, các thiện sinh tham dự có khi lên tới cả ngàn người. Làng Hồng còn có tổ chức các Khóa Tu Học mùa Ðông nữa. Tại Tu Viện Kim Sơn suốt trong tám năm qua, các Khóa Tu Học được tổ chức liên tục trong mùa Hè, mùa Thu và mùa Ðông. Khóa Tu Học nào cũng có rất đông người ghi tên tham dự và tất cả các khóa tu học đều đạt được kết quả rất tốt đẹp. Ở các chùa Việt Nam tại Hoa Kỳ đều có tổ chức các khóa tu học, song vì phòng xá, điều kiện không cho phép nên các khóa tu học chỉ dành riêng cho quý Phật Tử và Thiện Sinh trong vùng.
Lợi ích mang đến cho mọi giới Phật Tử từ các khóa tu học rất lớn. Nhờ tham dự các khóa tu mà người Phật Tử được thấm nhuần Giáo Pháp cao thượng, nắm vững phương pháp hành trì những lời Phật dạy, có cơ hội sống những ngày an lạc, những giây phút tỉnh thức để thấy rõ tình trạng của chính mình, các biến cố: khổ đau và hạnh phúc, xấu và tốt, sa đọa và thăng tiến, ích kỷ và lợi tha, thất vọng và hy vọng, buông thả và tự chủ, sự chết và sự sống.
Thấy rõ tình trạng của chính mình là một điều vô cùng quan trọng. Nhờ thấy rõ mà chuyển hóa khổ đau thành an lạc, nhờ thấy rõ mà ta biết trau dồi và phát triển sự tốt đẹp không ngừng.
– Nhiều người nhờ tham dự các Khóa Tu Học, nhờ sự cảm hóa kỳ diệu của Phật Pháp mà thân tâm thanh thản, sáng suốt và điềm đạm.
– Nhiều người nhờ tham dự các khóa tu học, nhờ sự cảm hóa kỳ diệu của Phật Pháp mà nhịp cầu cảm thông giữa người thân được thiết lập, nền tảng hạnh phúc Gia Ðình được tái tạo.
– Nhiều người nhờ tham dự các khóa tu học, nhờ sự cảm hóa kỳ diệu của Phật Pháp mà từ bỏ được sự nghiện ngập, tánh sân hận, thù oán, hẹp hòi, ganh tỵ và chia rẽ…
– Nhiều người nhờ tham dự các khóa tu học và sự cảm hóa kỳ diệu của Phật Pháp mà trừ khử được gốc rễ đau khổ.
KẾT
Một cách tổng quát, giáo dục làm nên văn hóa và văn minh của nhân loại. Giáo Pháp của Ðức Phật bao hàm trong ba tạng kinh điển, trải qua hơn 25 thế kỷ đã tác xúc và tạo nên ảnh hưởng rất lớn cho hướng đi giáo dục nhân bản và trào lưu tiến bộ của nhân loại. Ðường hướng giáo dục nhân bản luôn luôn nhắm đến hai mục tiêu là đào tạo con người xã hội và con người hiện thực của chính nó. Con người xã hội đi vào những ngành chuyên môn như khoa học kỹ thuật, y tế, văn hóa, bang giao quản trị, chính trị, kinh tế thì đã là con người vượt bậc trong thế giới văn minh hiện đại. Con người hiện thực của chính nó là con người có đầy bản chất yêu thương và trí tuệ. Phật Giáo, các tôn Giáo chơn chính, các nhà giáo dục nhân bản đã và đang đóng góp vào công trình xây dựng, làm hiển lộ “Bản lai diện mục” con người hiện thực đó.
Tổ chức Gia Ðình Phật Tử Việt Nam được khai sinh trên năm mươi năm qua và được sinh hoạt trong lòng Giáo Hội cũng đã và đang ảnh hưởng một cách sâu rộng trong công trình giáo dục đó. Trong đại nguyện dấn thân phụng sự tuổi trẻ phục hồi lại con người hiện thực của chính nó. Gia Ðình Phật Tử đã đặt hướng đi giáo dục con người toàn diện: Bi, Trí và Dũng. Nói và hành động, đó là châm ngôn của Tổ Chức Gia Ðình Phật Tử Việt Nam.
___________________________________________
Trung Đạo, con đường tu tập
và hoằng pháp
Thích Thái Hòa
Ðạo từ của Hòa thượng Thích Thái Hòa,
Cố vấn Giáo Hạnh Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVN,
trong Hội nghị khoáng đại giữa nhiệm kỳ 2012 – 2016
của BHD Thừa Thiên, tại Giảng đường chùa Phước Duyên – Huế,
ngày 5/12/ Giáp ngọ, tức ngày 24/01/2015).
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Cùng toàn thể anh chị em huynh trưởng quý mến!
Trong Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Ban Hướng Dẫn GĐPT Thừa Thiên, tôi có mấy điều chia sẻ đến các anh chị em như sau:
1 – Nguồn nhân sự:
Bất cứ tổ chức nào muốn tồn tại lâu dài và muốn phát triển mục đích, cũng như tôn chỉ của mình đến với đa số quần chúng, thì tổ chức đó phải có nhân sự. Nhân sự là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển hay suy vong của tổ chức.
Đào tạo nhân sự thiếu phẩm chất Bi Trí Dũng, đó là nguyên nhân suy thoái của Tổ chức GĐPT. Đào tạo nhân sự có đầy đủ phẩm chất Bi Trí Dũng, đó là nguyên nhân tồn tại và phát triển của Tổ chức GĐPT.
Một huynh trưởng được đào tạo, huấn luyện có phẩm chất Từ bi, người huynh trưởng ấy không giận hờn, trách móc ai qua đêm. Họ sẵn sàng hy sinh mọi quyền lợi và danh dự cá nhân cho lý tưởng và tổ chức GĐPT mà không có bất cứ một điều kiện nào. Họ yêu thương lý tưởng và tổ chức như chính yêu thương đời sống của chính họ, không kể nguy khó, không ngại gian lao.
Một huynh trưởng được đào tạo, huấn luyện có phẩm chất Trí tuệ, người huynh trưởng ấy không ăn nói ba hoa, mà nói và làm đúng với sự thật. Sự hiểu biết của họ không phải là chuyện trước mắt mà sự hiểu biết của họ là hiểu biết tường tận đến sự và lý của nhân quả ba đời. Họ hiểu rõ tánh và tướng, thể và dụng, nhân và duyên, nghiệp và quả của từng vấn đề. Sự hiểu biết của họ không phải chỉ đóng khung trong một không gian mà mở rộng đến mọi không gian. Sự hiểu biết của họ không phải chỉ là một đối tượng, một vật thể mà bao gồm nhiều đối tượng và nhiều vật thể. Sự hiểu biết của họ không phải bị giới hạn trong một pháp môn, mà biết vận dụng nhiều pháp môn để tương thích với mọi trình độ và hoàn cảnh của từng đối tượng, từng vùng miền, từng chủng loại và từng thế giới, để thành tựu sự nghiệp giáo dục và mục đích hoằng pháp của mình.
Một huynh trưởng được đào tạo, huấn luyện có phẩm chất Dũng lực, người huynh trưởng ấy có khả năng thực hiện phẩm chất Từ bi và Trí tuệ ngay trong cuộc sống này. Và có khả năng trao truyền phẩm chất Trí tuệ và Từ bi đến với mọi thành phần xã hội trong mọi không gian và trong mọi thời gian.
Như vậy, nguồn nhân sự của GĐPT là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại hay không tồn tại của Tổ chức GĐPT, quyết định sự phát triển hay suy thoái của Tổ chức GĐPT.
2 – Hệ thống điều hành:
Bất cứ tổ chức nào mang tính khoa học cũng đều kết cấu theo hai hệ thống ngang và dọc hay hoành và tung. Tổ chức kết cấu theo hàng ngang để phát triển tổ chức theo chiều rộng, nhắm tới liên kết quảng đại quần chúng trong xã hội, đưa mọi thành phần trong xã hội hoạt động cùng hướng về một mục tiêu. Tổ chức kết cấu theo hàng dọc là phát triển tổ chức theo chiều sâu và chiều cao, nhắm tới ba thành phần trí thức, trí tuệ và tinh hoa của xã hội tạo thành cốt lõi, nguồn sống và gương mặt lãnh đạo của tổ chức.
Tổ chức Trung ương không đứng ở vị trí ngang hay dọc mà đứng ở vị trí giao điểm của ngang dọc hay giao điểm của hai trục tung hoành. Giao điểm của hai trục tung hoành hay ngang dọc, Phật giáo gọi là Trung đạo hay là Tánh – không. Trung đạo thì không rơi vào một trong hai cực đoan và tánh – không là cứ điểm điều hành an toàn tuyệt đối của tổ chức và nó là trọng lực điều hành tổ chức và tổ chức ấy được bảo toàn bởi sự chuyển vận của hai trục tung và hoành hay ngang và dọc. Tổ chức mang danh Phật giáo, không thiết lập theo nhị biên mà thiết lập theo trung đạo. Trung đạo là trọng điểm của Phật giáo. Lìa xa Trung đạo để tu tập và hoằng pháp là tà đạo và tà pháp. Tà đạo, vì đạo ấy chỉ dạy cho con người về khổ, tránh né khổ, nhưng không dạy cho con người về nguyên nhân sanh khởi khổ đau, con đường diệt tận khổ đau và hạnh phúc sau khi mọi nguyên nhân sanh ra khổ đau đã bị diệt tận. Tà pháp, vì pháp ấy dẫn người thực hành rơi vào một trong hai cực đoan ép xác khổ hạnh và buông lung trong các dục. Khổ hạnh, khiến cho con người tự làm khổ bản thân mình và hèn yếu trước cuộc sống. Buông lung trong các dục, khiến cho con người tự làm khổ chính bản thân mình, đốt cháy và hoang phí đời sống của chính mình bởi những động cơ tham dục.
Nếu tổ chức chỉ có hàng dọc mà thiếu hàng ngang hay chỉ có hàng ngang mà thiếu hàng dọc, ấy là một tổ chức què quặt, bệnh hoạn. Hay một tổ chức mà tung và hoành không tương xứng, thì nó không thể tồn tại lâu dài, vì nó không thích ứng với đạo lý. Bất cứ cái gì thích ứng với đạo lý, thì tự thân của cái ấy có giá trị và tồn tại ở trong sự an toàn và vĩnh cửu. Nó an toàn, vì chính nó vận khởi từ tánh – không và nó chuyển động từ sự bất động của không – tánh; nó vĩnh cửu, vì nó vô thường trong sự thường tại vĩnh cửu của Trung đạo.
3 – Phương pháp thực hành:
Giao điểm là trọng điểm của ngang và dọc hay của tung và hoành. Cũng vậy, tâm là trọng điểm của đời sống con người. Con người phóng tâm theo phiền não, buông lung theo tham dục, thì khí lực suy tán, dẫn đến bệnh hoạn và mạng sống suy vong. Con người biết quay lại với tâm mình, buông bỏ tham dục, lắng yên phiền não, khiến tâm trong, ý sáng thì không có điều gì là không minh triệt. Các cảm giác, tri giác, tư niệm và nhận thức ở nơi tâm của mình không lừa dối được tuệ giác mình, thì còn ai trong đời có thể lừa dối!
Nên, có ba phương pháp thực hiện cho một Phật tử hay một huynh trưởng GĐPT có phẩm chất Bi Trí Dũng gồm:
Không làm các điều ác: Nghĩa là người Phật tử không làm bất cứ điều ác nào thuộc về thân, khẩu và ý. Thực hành theo phương pháp này tạo ra sinh chất nuôi dưỡng và phát triển đời sống Từ bi của người con Phật.
Phụng hành các điều thiện: Nghĩa là người Phật tử nguyện đem thân, ngữ và ý để thực hành mọi điều thiện. Thực hành theo phương pháp này tạo ra sinh chất nuôi dưỡng và phát triển đời sống Trí tuệ của người con Phật.
Tự lắng sạch tâm ý: Nghĩa là người Phật tử giữ gìn sự trong sạch ngay nơi tâm ý, bằng cách thực hành Ngũ căn gồm: Tín căn, tín căn, niệm căn, định căn, tuệ căn để sanh trưởng Ngũ lực gồm: Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực, nhằm phát triển đạo lực đưa đến Chánh đạo và thành tựu Phật đạo. Thực hành theo phương pháp này tạo ra sinh chất nuôi dưỡng và phát triển đời sống, bao gồm cả ba chất liệu Từ bi, Trí tuệ và Dũng lực của người con Phật.
Phật đạo là tinh hoa của người Phật tử, Chánh đạo là đời sống của người Phật tử có Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Thực hành theo phương pháp này, gọi là thực hành Trung đạo. Hoằng pháp thiết lập trên nền tảng Trung đạo, để cho ở trong đời, ai có mắt thì có thể nhìn thấy; ai có trí thì có thể lãnh hội; ai có thực hành, thì có thể chứng nghiệm. Với phương pháp thực hành này, chúng ta tạo ra nguồn nhân sự cho Phật giáo nói chung và Tổ chức GĐPT nói riêng, góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo.
4 – Khuyến tấn:
Như vậy, hôm nay BHD Thừa Thiên, tổ chức Hội nghị khoáng đại giữa nhiệm kỳ với mục đích rà soát lại hai năm đầu của nhiệm kỳ 2012 – 2016, đã thực hiện được những gì của kế hoạch do Đại hội này thông qua, và những gì chưa thực hiện được, lý do tại sao? Đồng thời thảo luận đưa ra những phương pháp thực hiện cho hai năm còn lại của nhiệm kỳ.
Tuy nhiên, điểm tôi muốn nhấn mạnh là nguồn nhân sự, quý vị phải rà xét yếu tố này, để thực hiện tốt hai năm còn lại của nhiệm kỳ và để chuẩn bị cho Đại hội của nhiệm kỳ tới. Quý vị cũng phải rà xét lại kết cấu tổ chức và cương vị lãnh đạo để không bị rời rạc và chệch hướng. Sau cùng, tôi muốn nhấn mạnh đến quý vị những phương pháp tu tập và hành đạo của người Phật tử nói chung và cho những huynh trưởng GĐPT nói riêng, biết vận dụng và khai thác “khế lý” để thích ứng “khế cơ và khế thời” trong thời đại của con người đang sống và chạy đua tiêu thụ đời sống theo nền Văn Minh Tin Học, để chúng ta có cơ hội đóng góp vào sự nghiệp Phật hóa toàn cầu bằng con đường Trí tuệ và Từ bi của đức Phật.
Giáo dục tuổi trẻ
hiện nay tại hải ngoại
Thích Như Ðiển
Từ khi con người có mặt trên quả đã cầu này, dưới một hình thức nào đó, ở bản thể tự nhiên, con người đã sinh sống trong cuộc đời này ở hai dạng thức khác nhau. Ðó là đời sống tinh thần và đời sống vật chất.
Dưới cái nhìn của một nhà triết học nó khác với nhà tôn giáo học. Nhà tôn giáo học phải có cái nhìn về cuộc đời khác hơn nhà chính trị học, phân tâm học v.v & Nhưng dầu cho ở một thể loại nào đó, con người cũng không thể chỉ sống đơn thuần bằng sự lớn khôn của gạo cơm rau nước, mà còn phải có sự lớn mạnh của tinh thần nữa. Do vậy Phật Giáo định nghĩa là trong cái này nó có cái kia và trong cái kia có tồn tại cái này. Nghĩa là ngoài vật chất sẽ không có sự tồn tại của tinh thần và ngoài tinh thần, vật chất không thể tồn tại đơn điệu được. Trong phạm trù này vấn đề giáo dục giữa một vị trí rất quan trọng. Vậy giáo dục là gì?
Chữ Giáo ở đây có nghĩa là dạy dỗ, chỉ bày. Chữ Dục có nghĩa là mong muốn, để trở thành. Ðịnh nghĩa chung lại chữ giáo dục có nghĩa là: chỉ bày cho ai đó (một điều gì) và (mong người đó) trở thành (người hữu dụng) cho đời, cho đạo. Ðó gọi là giáo dục.
Có mấy loại giáo dục như thế?
Thật sự ra phải trả lời rằng có vô số loại giáo dục. Ví dụ như giáo dục nhi đồng, giáo dục thiếu niên, giáo dục thanh niên, giáo dục người lớn, giáo dục tâm lý học, giáo dục học đường, giáo dục xã hội, giáo dục luân lý, giáo dục luận lý, giáo dục sinh lý, giáo dục thống kê, giáo dục hành chánh, giáo dục tài chánh v.v… và cứ thế mỗi một loại giáo dục sẽ có một chuyên đề khác nhau. Ở đây chỉ muốn đề cập đến một số vấn đề có liên quan đối với tuổi trẻ Việt Nam đang sống và lớn lên tại hải ngoại ngày nay.
1. Hoàn cảnh giáo dục:
Nói đúng hơn và cho đủ nghĩa là môi trường giáo dục. Ở các xã hội Á châu ta ngày xưa và ngay cả ngày hôm nay cũng vậy, người học trò chỉ cần học những cái gì từ ông Thầy dạy mình là đủ. Người học trò chỉ có bổn phận học thuộc lòng sau đó trả bài cho Thầy, thế là xong bổn phận. Trong khi đó tại ngoại quốc ngày nay, cái bối cảnh ở đây lại khác; người học trò không những chỉ học cái của ông Thầy chỉ bày mà còn phát triển thêm phần năng khiếu của mình nữa qua các trò chơi, computer hay thư từ giao dịch v.v… tầm hiểu biết của trẻ con ngày nay tiến rất xa so với một thế hệ đi trước; nghĩa là cách nhau chỉ hai mươi năm mà mọi hoàn cảnh đều được đổi thay.
Những nước nông nghiệp phát triển về giáo dục rất chậm. Vì lẽ thông tin không cập nhật hằng ngày, trong đó có Việt Nam của chúng ta và các nước chậm tiến khác trên thế giới. Trong khi đó các xứ phát triển về kỹ nghệ, con người có khả năng dùng thì giờ nhanh hơn, nhiều hơn và bén nhạy hơn. Có lẽ do hoàn cảnh và môi trường chung quanh, mà sự giáo dục được phát triển thuận chiều như thế.
Ðứa trẻ tại Á châu nhìn cha mẹ và thầy giáo gần như một vị Thần. Do vậy, đứa trẻ chỉ sợ ông Thần kia hành hạ, chứ ít có sự liên hệ mật thiết giữa cha mẹ và thầy trò. Ngược lại, ở các xã hội Âu Mỹ ngày hôm nay, vị thầy giáo ở học đường hay cha mẹ tại nhà, đứa trẻ rất thân thiện và tự tin và dưới cái nhìn của nó là một người bạn chứ không phải là một vị Thần mà nó thường phải nơm nớp lo sợ khi vào lớp.
Ở đây người ta dạy cho chúng tự tin hơn, để khi lớn khôn lên khi chúng đứng trước bạn bè cử tọa, chúng sử dụng hết năng khiếu của mình và khả năng tự chủ của nó; vì được huấn luyện thực tập từ nhỏ nên rất dạn dĩ, tự nhiên. Còn con em Việt Nam chúng ta thì sao?
Nếu nói hoàn toàn ngược lại thì cũng không đúng hẳn. Vì cũng có nhiều người có lối biện tài vô ngại trước một số cử tọa đông đảo; nhưng số này rất tiếc lại không có nhiều. Trong khi đó đa phần đều bị động. Khi nào kêu đến tên mình thì phát biểu ý kiến; nhưng không phải tự đáy lòng, chỉ nói thoáng qua, nội dung không sâu sắc lắm. Thế mà có những câu chuyện bên lề, ngoài lớp học, chốn ngao du sơn thủy lại nổ giòn hơn bắp rang. Có phải hoàn cảnh và môi trường giáo dục của con em Việt Nam chúng ta ứng dụng vào thực tế không đúng lúc, đúng thời chăng?
Nói về Gia Ðình Phật Tử Việt Nam là một tổ chức đã có mặt hơn 50 năm tại quốc nội và hơn 25 năm tại ngoại quốc. Tuy số đoàn sinh có đông đó; nhưng những nhà giáo dục của Gia Ðình Phật Tử hay nói đúng hơn là những anh chị Huynh Trưởng vẫn còn rập khuôn giống như hoàn cảnh của Việt Nam trước đây 50 năm. Do vậy mà phải thành thật nói thẳng: Tuy có hiệu quả đó nhưng không nhiều. Ðất nước của Việt Nam chúng ta là một nước nông nghiệp; không phải là một đất nước kỹ nghệ và hoàn toàn dân chủ như Hoa Kỳ, kể từ khi lập quốc đến nay hơn 200 năm chưa có một vị Vua nào thống trị tại đó, mà chỉ toàn là Tổng Thống. Do vậy vấn đề giáo dục cho thanh thiếu niên của Gia Ðình Phật Tử phải được cập nhật hóa lại qua sự đóng góp của các Huynh Trưởng đã qua các đại học sư phạm hoặc giáo dục. Nếu không, tiếng vọng ấy chỉ một chiều và khó còn có tiếng hòa âm để phát triển trong một không gian bao la vô tận và đầy hứa hẹn ấy.
2. Phương pháp giáo dục:
Các người Mẹ Á châu của chúng ta thể hiện sự thương con của mình bằng cách khi nào con khóc thì liền cho bú, hoặc dỗ ngọt; nhưng điều ấy không có lợi. Vì lẽ chỉ để làm thỏa mãn cái tự ngã của đứa bé mà thôi. Chẳng lợi ích gì cho nó cả. Nếu có, đó là lợi cho người lớn. Vì lẽ, để người lớn có nhiều thì giờ hơn để đi làm việc khác khi biết rằng đứa bé đã được ngủ yên. Như thế là một sự giáo dục không cân bằng. Ở Âu Mỹ này khi đứa bé khóc, hãy để cho nó tự khóc và tự nín. Ðiều này mới nhìn vào thấy sao bà Mẹ tàn nhẫn thế. Nhưng điều ấy rất hay cho thế tự chủ của đứa bé, cứ khóc cho đã, sau đó ắt phải nín thôi.
Người Á châu chúng ta khi thấy con mình té; điều trước tiên là chạy lại đỡ liền; nhưng ở Âu Mỹ lại không; hãy để cho đứa trẻ tự đứng dậy để nó sẽ tự lập cho cuộc đời của chính nó về sau này.
Người Á châu của chúng ta khi đi thi thường hay xem lén bài của người bên cạnh; nhưng ở Nhật và ở các xứ Âu Mỹ ngày nay hầu như không có. Vì sao vậy? Vì chép được kết quả của kẻ khác để thi đậu đó không phải là tự lực về sự phát triển năng khiếu của chính mình.
Người Mẹ Á châu ít khi hỏi ý kiến chồng hay con cái trong nhà là thứ hai mẹ sẽ nấu món gì, thứ ba, thứ tư mẹ nấu món gì? Con có thích không? Mà Mẹ cứ nấu món của Mẹ thích; còn con có ăn không là chuyện của con chứ không còn là chuyện của Mẹ nữa. Ở đây người ta khác hoàn toàn, vào mỗi cuối tuần cả gia đình có buổi họp mặt để bàn luận với nhau về những sinh hoạt của gia đình trong tuần tới và kiểm điểm những ưu khuyết trong tuần rồi. Thế mà đa phần gia đình Việt Nam ít có tổ chức được như vậy. Ở Gia Ðình Phật Tử cũng thế, có nhiều Huynh Trưởng không tốt nghiệp những khoa tâm lý học của tuổi trẻ và quần chúng mà ra cầm đoàn là hỏng. Vì chỉ làm theo những gì cổ xưa trong sách vở, chứ không có sáng kiến. Nếu ai đó có hỏi thì bảo rằng: Ðây là nội quy của Gia Ðình Phật Tử Việt Nam. Trả lời như vậy nó không sai, nhưng không hoàn toàn đúng. Vì lẽ nội quy do một tập thể soạn ra thì mấy mươi năm sau một tập thể khác cũng có quyền sửa đổi kia mà. Ðâu phải là một định luật, như định luật vô thường mà phải sợ nhân quả của nó.
Như ta thấy hiến pháp của một nước còn có thể sửa đổi được, nếu phải thông qua quốc hội hoặc trưng cầu dân ý. Ngay cả giới luật của người tu, trước khi tịch Niết bàn, Ðức Thế Tôn còn căn dặn Ngài A Nan rằng: Những giới luật nào không cần thiết cũng cần nên loại bỏ. Ðó là những điều căn bản. Tuy nhiên có nhiều Huynh Trưởng và nhiều Tăng Sĩ cứ khư khư giữ cái cũ như giữ vàng bạc, đá quý không chịu thay đổi phương pháp giáo dục để hợp với hoàn cảnh ở ngoại quốc ngày nay. Trong khi các anh chị Trưởng trung niên hoặc lão niên mới chỉ tốt nghiệp trung học hoặc đại học mà các em của ngành thanh của Gia Ðình Phật Tử Việt Nam ngày nay tại hải ngoại đang tốt nghiệp tiến sĩ, cao học v.v… vì vậy phương pháp giáo dục của Gia Ðình Phật Tử cũng cần phải nghiên cứu lại. Có nhiều em than với tôi rằng: Bạch thầy sao con thấy vào Gia Ðình Phật Tử giống như đi lính quá! Tôi trả lời rằng: Thì một tổ chức phải có kỷ cương chứ sao.
Nhưng câu trả lời ấy có lẽ không giải đáp được thắc mắc của các em thanh thiếu niên này. Vì có lẽ nơi tự thâm tâm của các em tổ chức Gia Ðình Phật Tử là một tổ chức phải tự do hơn, cởi mở hơn; không có những người không có kinh nghiệm về tâm lý mà đi hướng dẫn về tâm lý. Tuy Gia Ðình Phật Tử Việt Nam chúng ta có các cấp Tập, Tín, Tấn và Dũng để định vị cho kết quả của mình qua các khóa huấn luyện và các kỳ trại; nhưng phải thành thật mà nói các thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam ở hải ngoại ngày nay đòi hỏi các anh chị Trưởng ấy phải trải qua sự huấn luyện của giáo dục để hội nhập với đời sống cũng như văn hóa tại xứ người, mới có thể hướng dẫn các thế hệ đi sau, làm cho họ tin tưởng và có vui thú để lui tới sinh hoạt với Gia Ðình Phật Tử.
Cây Bồ đề nếu mọc tại các xứ Á châu nhiệt đới không cần tưới nước và trồng ở bất cứ nơi nào ngoài trời nó cũng có thể sống được. Nhưng ở Âu Mỹ và các xứ lạnh thì ngược lại. Phải trồng nó trong nhà có sưởi ấm; nếu không cây Bồ đề ấy không có lá mà cũng chẳng có cành. Ðây là phương pháp giáo dục của Gia Ðình Phật Tử Việt Nam và ngay cả giáo dục cho Tăng Ni sinh, các thế hệ trẻ ngày nay tại hải ngoại mà các bậc Tôn Túc cũng như các anh chị Trưởng cần phải lưu tâm đến.
3. Giáo dục quần chúng:
Khi bảo một người Nhật hát một bài dân ca, họ có thể hát từ đầu đến cuối một cách thông suốt dịu dàng hay ho và đúng theo nhịp điệu. Bảo mười người họ cũng hát như thế và một trăm người họ cũng ca bằng một nhịp điệu như thế. Trong khi đó người Việt Nam chúng ta thì khác hẳn. Trong quần chúng có rất ít người thuộc trọn vẹn một bài dân ca. Mọi người hát mọi vẻ và kẻ thuộc đoạn này lại quên đoạn kia và nhiều khi bỏ dở nửa chừng và để được an ủi xen vào đó là những tràng pháo tay tán thưởng không trọn vẹn.
Ngay cả những tổ chức Phật Giáo thuần thành tại hải ngoại ngày nay khi hát quốc ca còn tương đối được; nhưng khi hát đến Phật Giáo ca thì thôi khỏi nói, nhiều khi thấy chẳng trang nghiêm nhịp điệu chút nào. Ðây là hậu quả của giáo dục quần chúng không nghiêm chỉnh vậy. Ðó là chưa nói những buổi tụng kinh tập thể của Gia Ðình Phật Tử hoặc của các Ðạo Hữu tại các chùa, ngay cả các chùa có các thầy trụ trì. Thầy hoặc Huynh Trưởng mới bắt chữ “Nam” là ở dưới đại chúng đã hòa theo chữ “Mô” rồi; nhưng Nam Mô gì tiếp theo, làm sao ông chủ lễ có thể cưỡng giọng lại được của đại chúng bên dưới lớn hơn; trong khi ông ta muốn tụng là Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, chứ không phải là Nam Mô A Di Ðà Phật. Người Âu Mỹ khi đi vào nơi tôn nghiêm rất lịch sự, cử chỉ trang trọng thành kính.
Người Việt Nam mình cũng không thiếu những người như thế; nhưng chưa được quần chúng hóa. Ví dụ như khi đi đám tang, người mình chưa mặc được một loại đồng phục, khi vào nơi tôn nghiêm hoặc nơi thuyết pháp, hoặc khi sinh hoạt đoàn vẫn cứ nói chuyện riêng, gây nên rất nhiều phiền hà cho những người bên cạnh, chính mình đã không được lợi ích gì, mà người khác cũng bị ảnh hưởng lây. Khi vào nơi trang nghiêm đôi khi lại hút thuốc, cười giỡn, không lưu ý những lời kinh hoặc những lời giảng của các vị Thầy v.v… Ðây là một lối giáo dục quần chúng có tính cách đại trà, khó khăn vô cùng. Một người không thể tạo nên một cảnh giới thanh tịnh được, mà mọi người phải tự tạo nên hoàn cảnh tốt thì hoàn cảnh mới đổi thay. Ðiều ấy do chính con người phải thay đổi hoàn cảnh; chứ hoàn cảnh tuyệt nhiên không thể thay đổi con người được.
4. Giáo dục tu học:
Ðây có thể là một đề tài mới do chính tôi đặt ra. Theo tôi nghĩ cũng có thể áp dụng cho cả Tăng sĩ và Cư sĩ, trong đó có Gia Ðình Phật Tử. Tôi cũng thường hay nói với Tăng chúng của chùa Viên Giác tại Ðức rằng: Sự học không làm cho con người ta tự giải thoát được; nhưng nếu muốn mở cánh cửa giải thoát kia không thể thiếu sự tu và sự học được. Vậy phải biết rằng mục đích chính là sự giải thoát, mà muốn giải thoát thì phải có tu và có học. Có người chỉ có học mà không tu. Có kẻ lại có tu mà chẳng học. Do vậy nó không có sự bổ sung cho nhau. Nếu muốn cho một con tàu chạy nhanh, không những chỉ cần một đầu máy tốt, mà toa tàu cũng không phải là vấn đề không quan trọng. Làm sao để đảm bảo được chuyến tàu tốc hành về Tây phương Cực lạc, người Huynh Trưởng phải tự trang nghiêm mình bằng lời nói và việc làm, chứ không phải chỉ lý thuyết không. Ngày nay tại Âu châu này, có nhiều đoàn sinh Gia Ðình Phật Tử đã thọ Bồ Tát giới tại gia, ăn chay trường, có bằng cấp như Kỹ sư, Bác sĩ, tham gia rất đều đặn trong các khóa tu học Phật Pháp Âu châu cho đến nay đã 13 kỳ, mỗi kỳ tổ chức 10 ngày tại mỗi quốc gia vào mỗi năm khi hè đến và nhiều người đã tham dự các khóa tu gieo duyên 14 ngày tại Úc châu, Âu châu hay Mỹ châu. Trong khi đó thì nhiều anh chị Trưởng về trình độ Phật Pháp còn rất giới hạn, chỉ còn nằm trong chương trình Phật Pháp của Gia Ðình Phật Tử chứ chưa làm quen với các bộ kinh lớn như Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Ðại Bát Niết Bàn v.v
Gần đây trong nước Gia Ðình Phật Tử Việt Nam đã cố gắng soạn ra một bộ sách về Phật Pháp tương đối cao hơn; nhưng cũng chỉ mới nằm ở ngưỡng cửa Ðại học chứ chưa vào sâu nơi Hậu Ðại Học. Cũng mới chỉ là lý thuyết chứ chưa phải là thực hành. Về mặt nổi của Gia Ðình Phật Tử có nhiều ưu điểm là đồng phục, kỷ cương; nhưng về mặt sâu thẳm của nội tâm và sự tu học, Gia Ðình Phật Tử cần phải hòa nhập vào với các khóa tu khác của các Chùa và các Giáo Hội khác tổ chức, chứ không phải chỉ khư khư giữ kỹ nội dung huấn luyện của 50 năm trước mà không có một sự uyển chuyển nào đối với sự tiến bộ của thế giới ngày nay. Sự tu học cũng giống như một dòng nước chảy, không tiến ắt phải bị vật cản khác chi phối. Do vậy phải tự trang bị cho chính mình một sự tu học chín chắn hơn để phục vụ cho lý tưởng của một người Huynh Trưởng Phật Tử, đồng thời mình phải là một nhà mô phạm cho các em trong cả sự tu lẫn sự học.
Ngày nay người ngoại quốc tìm hiểu và theo Phật Giáo rất nhiều. Vì họ biết rằng chỉ có giáo lý của đức Phật mới có thể giải phóng họ ra khỏi những giáo điều cứng nhắc và vô ý vị của các Tôn Giáo khác. Nói như nhà Bác học Albert Einstein đã từng nói: Một tôn giáo trong tương lai thích hợp và hướng dẫn cho khoa học, không Tôn Giáo nào khác hơn là Phật Giáo. Phật học cao cả như thế mà một người Huynh Trưởng không thông thạo giáo lý, một vị Tăng Sĩ chỉ thực hành giáo lý một chiều, thì không cách nào mà mang đạo vào đời được và nhất là mang chuông đi đánh xứ người, tiếng chuông ấy phải thanh, phải vang vọng vào lòng người, chứ không thể và nhất định là đạo đời hai ngã khác nhau được. Muốn như vậy người Huynh Trưởng, người Tăng Sĩ lãnh đạo đó phải rành ngoại ngữ và phải tu học nghiêm chỉnh để trang nghiêm cho tự thân mình thì mới có thể trả lời thông suốt những câu hỏi mà người ngoại quốc đã đặt ra và hỏi mình. Nhân việc Gia Ðình Phật Tử Việt Nam tại Hoa Kỳ thuộc Miền Quảng Ðức muốn ra một lưu tập có liên quan đến vấn đề giáo dục tuổi trẻ Việt Nam và anh Quảng Pháp Trần Minh Triết có nhờ tôi viết bài này và tôi chỉ viết trong 4 phạm trù đã nêu trên.
Nếu có được lợi lạc nào thì xin trang trải cho tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại ngày nay mà các anh chị trưởng lãnh phần trách nhiệm chính. Nếu không, nó cũng chỉ là một đóng góp khiêm nhường của một người Tăng sĩ Việt Nam đã sống tại ngoại quốc hơn 30 năm nay, đã trải qua các Ðại học danh tiếng tại Nhật và tại Ðức về ngành giáo dục tâm lý học quần chúng mà nhiều khi sự giáo dục đó nó chỉ thích hợp cho người ngoại quốc, chứ không phải cho người Việt Nam thì đây chỉ là một đề tài để tham khảo mà thôi. Trong cương vì là Ðiều hợp cũng như liên lạc viên của các Gia Ðình Phật Tử Việt Nam ở hải ngoại cũng như quốc nội, ngày hôm nay tôi rất hãnh diện để nói lên những quan tâm của mình cho tuổi trẻ mà chính thời kỳ niên thiếu của tôi cách đây gần 40 năm về trước khi đi xuất gia, nếu không có sự hiện hữu của Gia Ðình Phật Tử Việt Nam tại một làng quê xứ Quảng, thì ngày nay tôi đã không có cơ hội để gởi gắm những tư tưởng của mình cho các thế hệ đàn anh và các thế hệ chuyển tiếp về sau.
Mỗi một thế hệ chỉ có thể bắc được một nhịp cầu từ quá khứ đến hiện tại mà thôi. Tôi đoan chắc rằng thế hệ tương lai phải do nhịp cầu trong hiện tại bắc tiếp tục, chứ chiếc cầu quá khứ không thể bắc tiếp quá khứ sang tương lai được. Nếu cố bắc, cũng sẽ bị hụt hẫng. Vì mỗi một con người chỉ làm được một số công việc nhất định mà thôi. Cầu nguyện cho tổ chức Gia Ðình Phật Tử Việt Nam ngày nay ở trong cũng như ở ngoài nước luôn luôn dũng mãnh tinh tấn và tiến bước dưới ánh sáng nhiệm mầu của chư Phật. Mong lắm thay! Từ Ðức quốc xa xôi khi mùa xuân đã đến.
Munich, ngày 18.04.2000
___________________________________________
Tinh thần quán niệm
Thích Từ Lực
QUÁN NIỆM LÀ GÌ?
Nói một cách đơn giản, quán niệm là điều cần thiết ta làm hàng ngày để có nhận thức đúng đắn về những sự việc xảy ra. Đó là sự suy gẫm tường tận và thấu đáo vấn đề. Khi đã hiểu rõ hoàn cảnh nảy sinh và những khía cạnh thường là phức tạp của sự việc, chúng ta sẽ không HIỂU LẦM và từ đó tránh được cho mình sự phiền muộn, sân hận kể cả phản ứng hay manh động không hợp lẽ nữa.
Lấy một ví dụ quen thuộc như khi tôi biết được có người nói điều mình thấy “khó nghe”. Chẳng hạn như câu bình phẩm “Ông Thầy Từ L., người gì đã ốm yếu mà lại vô duyên nữa!” Nghe vậy, ai mà chẳng thấy nóng mặt, nóng cả người. Nếu không tu tập, quán chiếu thì đã phản ứng TỨC THỜI! (tôi cũng không biết sẽ làm gì được “đối phương” khi thân hình mình chỉ vỏn vẹn có 98 pounds!)
Đây là lúc cần phát khởi chánh niệm, coi thử “nhận xét” trên hư thực ra sao, đúng sai ở điểm nào. Thật ra, câu nói trên có phần đúng. Đó là trọng lượng quá khiêm tốn của tôi. Còn nếu nói mình vô duyên, tôi thấy cần tự xét lại mình trước khi có thể cho rằng người nói CHƯA HIỂU tôi cho lắm nên vui miệng mà bình phẩm. Hiểu như thế, tôi tự dập tắt được sự phiền muộn có thể đã chớm trong lòng. Bởi vì, xét kỹ tôi không giấu điều tự hào về sở trường của mình, vừa có thể hát cải lương, môn nghệ thuật được ưa chuộng của đồng bào trong Nam, lại vừa tụng kinh theo giọng của quê nhà xứ Huế. Chỉ cần điểm đó thôi là tôi thấy mình có duyên lắm rồi! Nghĩa là mình có được lợi khí dễ dàng làm quen với đám đông, với những người bạn mới.
Như thế, nói chung, trong tinh thần quán niệm được phát huy, mọi sự việc xảy ra đều là những tác nhân giúp ta suy gẫm để hoàn thiện, không nên để chúng là duyên cớ khiến ta phiền muộn hay giận hờn. Từ đó, tôi mạn phép để đưa ra kết luận rằng: duy trì quán niệm thường xuyên trong cuộc sống là điều kiện đem lại an tĩnh cho tâm hồn.
Trở lại môi trường thực tế mà những người Huynh trưởng như quý Anh Chị dấn thân phục vụ cho lý tưởng và theo tâm nguyện, những nghịch duyên đã dẫn đến bất đồng hay mâu thuẫn xuất phát trong hoàn cảnh khác nhau là điều khó mà tránh khỏi. Vấn đề cần làm là chúng ta quán chiếu sự việc ra sao để duy trì được nhận thức và hành động giữ vững tình huynh đệ trong tổ chức, trước nhất là không góp phần vào việc tạo thêm chướng duyên hay tạo cơ hội cho nghịch duyên phát triển.
Tiến trình giải quyết có thể rất khó khăn và đòi hỏi ý thức cống hiến cao độ cho lý tưởng của mỗi người. Trong phạm vi cuộc thảo luận, tôi chỉ mạo muội chia xẻ cùng quý Anh Chị hai điều dưới đây mà thú thật, tôi xem như lời cầu nguyện hàng ngày như thể tôi cầu nguyện cho chính mình gặp được thuận duyên để thực hiện trọn vẹn hạnh nguyện xuất gia.
I. HÃY THỂ HIỆN NHIỀU THƯƠNG YÊU
Khi lặp lại yêu cầu quen thuộc này, tôi muốn xin quý Anh Chị hãy suy gẫm thêm về mối tình cảm tương thân ràng buộc giữa những người cùng chung một màu áo, một lý tưởng điển hình là hơn một trăm Huynh trưởng cùng hiện diện nơi đây để thấy sự cần thiết phải tô bồi thường xuyên tình cảm thiết thân này. Hiển nhiên là, như quý Anh Chị đều rõ, tình cảm liên đới và hỗ tương giữa những người cùng chung tổ chức là sức mạnh để tổ chức được tồn tại. Tình cảm này được khuyến khích, vun bồi sẽ là sinh khí và nhuệ khí cho tổ chức thăng tiến, phát triển.
Trên thực tế, thú thực, do nhiều nguyên nhân hay hoàn cảnh, trong nhiều trường hợp chúng ta chưa thể hiện được đầy đủ tình thương yêu như mong muốn chung hay như đòi hỏi của tổ chức chưa kể có lời nói, thái độ hay hành động không phù hợp với mục đích phát huy tình thương trên. Nay, trong tinh thần quán niệm được khuyến khích, chúng ta có cơ hội nhìn lại và nhìn rõ hơn sự việc trong đó có những điều chúng ta đã nghĩ, đã làm để nhận ra rằng chỉ có sự phát huy tình thương yêu mới đem lại an tĩnh cho tâm mình, đem lại an lạc cho người và sự tăng trưởng của tập thể. Trong niềm tin tưởng đó, giờ đây, xin quý Anh Chị cùng nhất tâm nghe lời QUÁN NGUYỆN về đức bồ tát Quán thế Âm (đọc lời quán nguyện sau ba tiếng chuông).
Trong tinh thần quán niệm, chúng ta thấy được chân tướng của sự việc đồng thời hiểu rõ thêm tâm hồn những người quanh ta, thông cảm được hoàn cảnh của mỗi người cũng như khả năng mỗi người khi ứng phó. Sinh hoạt với miền Thiện Minh, tôi có cơ hội lưu tâm đến hoàn cảnh cá nhân Huynh trưởng, thường cầu nguyện cho chị Đồng Nguyệt, cho anh Đường Hào, cho các Huynh trưởng của Chánh Đức và Chánh Hòa… Quả thật, quý Anh Chị công việc bộn bề, nào là việc nhà, việc hai bên nội ngoại, có người còn lo toan việc làng, việc xóm nữa. Nghĩ lại, đôi lần, mình vẫn còn cảm thấy buồn bực ít nhiều khi quý Anh Chị vì lý do riêng không đáp ứng lời yêu cầu giúp đỡ của tôi (như quên mua cà – rem cho tôi chẳng hạn.) Công phu hai buổi, ngồi thiền mỗi sáng để nhiếp tâm, đã giúp tôi khiến sự phiền muộn chỉ thoảng qua trong lòng. Thú thực, công phu tu tập ấy chưa đủ khả năng khiến tâm an nhiên trước những điều không được như ý.
Có lần, tôi bùi ngùi khi nghe một anh Huynh trưởng, tuổi đời trên sáu mươi, tuổi đoàn gần bốn mươi năm, tâm sự: “Thầy ơi, chẳng lẽ, suốt một đời sinh hoạt với châm ngôn Bi Trí Dũng, mà gần cuối đời lại có kết quả: vợ không hiểu, con không thương, còn mình thì không đủ can đảm và quyết tâm để dẹp bớt bản ngã, tự ái cá nhân. Con phải làm gì cho đúng, thưa Thầy.” Tôi thấy anh đã thốt lên trong lúc bi quan nhưng tôi cũng hiểu rằng công phu tu tập trong đó có sự quán chiếu bản thân phải là việc làm thường xuyên và kiên trì của người Huynh trưởng và cần được thể nhập trong đời sống hàng ngày chứ không phải chỉ trong thời gian tu tập.
II. HÃY THÊM PHẦN ĐOÀN KẾT
Đoàn kết là hệ quả tất yếu khi tình tương thân tương ái trong tổ chức chúng ta được xiển dương và cần được xem như yếu tố tạo nên sức mạnh và thống nhất của tập thể. Câu chuyện ngụ ngôn về bó đũa bị tách rời thì chúng ta đã nghe cả và đã có ít nhiều kinh nghiệm. Với mục đích phát huy tinh thần đoàn kết, tôi xin đưa ra đề nghị gồm ba điểm sau như một đóng góp thiết thực trong cuộc hội thảo.
Một là, cần củng cố và kiện toàn tổ chức hiện tại mà những khó khăn trong giai đoạn qua đã ảnh hưởng hay tác động bất lợi đến hoạt động hay kế hoạch, dự án. Mục đích, nội dung và ý nghĩa của công việc trên không xa rời châm ngôn lấy từ đôi câu Cùng ngồi xuống, thọ trì giới pháp, chăm sóc thân tâm, vui tình đạo Hãy đứng lên, xây dựng nhà lam, báo đền ơn Phật, vẹn nghĩa đời Hai là, hãy tiếp tục TÌM KIẾM và MỞ RỘNG những cơ hội liên lạc hay gặp gỡ với các đoàn thể anh em mà vì lý do riêng nay hoạt động biệt lập. Đây là hoàn cảnh thuận lợi và là cơ hội tốt để chúng ta tiến gần nhau hơn trong tinh thần cảm thông, hiểu biết và thân hữu. Nỗ lực trên trở nên hết sức cần thiết cho việc đem lại sự ổn định trước mắt cho tổ chức nếu chúng ta xem đây là những cơ hội ngăn chặn sự nẩy nở thêm những nghịch duyên, đào sâu những bất đồng hay bồi đắp thêm thành kiến. Chúng ta vui mừng khi thấy trong thời gian qua đã có cuộc gặp gỡ và sinh hoạt ngoài trời (picnic) tại Stockton, miền Bắc California quy tụ các đơn vị GĐPT trong vùng. Tại miền Nam California cũng có chín đơn vị GĐPT xum họp trong một trại họp bạn tại công viên. Sự việc trên tuy lẻ tẻ nhưng là dấu hiệu đáng mừng của một nỗ lực lâu dài nhằm thúc đẩy sự thông cảm và hiểu biết lẫn nhau. Và, vì chúng ta đều hiểu rằng chính sự đồng thuận trong lòng người mới là nền tảng vững bền của sự hợp nhất.
Sau cùng, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn giữ vững tinh thần lạc quan và tin tưởng vào tương lai, vào vận hội mới của tổ chức. Sự lạc quan, tự tin sẽ giúp chúng ta sức mạnh tinh thần cần thiết để hành động, để vượt qua nghịch cảnh và thử thách.
Có THỰC SỰ thương yêu và THÀNH TÂM đoàn kết, chúng ta sẽ tìm được an lạc trong tâm hồn, phúc lợi cho tập thể và trường tồn cho tổ chức.
KẾT LUẬN
Từ ngàn xưa, Khổng giáo đã đề ra tiến trình cần thiết cho công cuộc bình trị bằng việc lấy việc rèn luyện bản thân làm căn bản: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Giáo lý nhà Phật cũng chỉ rõ cái gốc của mọi sự việc: tâm dẫn đầu mọi pháp. Chúng ta cần quán chiếu sự việc từ tâm mình để nhận chân hình tướng và mối tương quan nhân quả của chúng hầu tránh được những suy nghĩ, thái độ hay hành động không hợp lẽ. Được thế, tâm ta an lạc, trí ta thảnh thơi, nghịch duyên dần hóa giải.
Thưa quý Anh Chị,
Đề tài thì bao quát mà xét lại mình, tài hèn đức bạc, những điều vừa trình bày chưa đáp ứng được những băn khoăn hay thao thức bấy lâu của quý Anh Chị.
Lẽ đó, tôi xin giới thiệu quý Anh Chị tập tài liệu hữu ích và súc tích của cố Hòa Thượng Thiện Hoa, người từng giữ trọng trách Trưởng Ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Đình Phật Tử Việt Nam, tác phẩm “Tu Tâm Dưỡng Tánh”. May mắn thay, công việc tu tập bản thân chúng ta nay vẫn còn được bậc Tôn Sư đã khuất để mắt, theo dõi và chỉ giáo.
Cầu Phật gia hộ anh Trưởng Ban cùng quý Anh Chị Huynh Trưởng nhiều an vui và đạt được thành quả trong khóa Hội thảo này.
Nam mô Thường Hoan hỷ Bồ tát Ma ha tát.
___________________________________________
Ai là Tâm Minh thế kỷ 21
Thích Từ Lực
Giữa khung cảnh an tĩnh của lúc đầu Xuân, kẻ hậu học xin cúi đầu tưởng niệm bậc tiền bối hữu công: cụ Tâm Minh Lê Ðình Thám. Chắc bạn rõ, không phải là sự ngẫu nhiên mà tôi ngồi đây, trong căn chái nhỏ, để viết về con người và sự đóng góp của cụ đối với Phật giáo nói chung và đối với tổ chức Gia đình Phật tử nói riêng. Thật là một con người đầy đạo tâm và sức sống. Lắm lúc, vì hơi ốm yếu, tôi đã mong ước mình có được phần nào tâm chí vững mạnh và đầy lý tưởng của cụ.
Một câu chuyện xưa:
Tôi xin phép được bắt đầu với bạn bằng một câu chuyện xưa. Lúc tôi mới vào chùa, làm điệu, có tham dự những buổi học tập kinh điển và giới luật hàng tuần. Có khi vào buổi tối, sau giờ đi học ở trường, mà cũng có khi vào ngày cuối tuần. Tôi còn nhớ, hôm đó, thầy Tịnh Từ, hiện nay là Viện trưởng tu viện Kim Sơn, dạy chúng tôi về bản văn “Ðại thừa Kim Cang Kinh luận” do hòa thượng VIên Giác của tòng lâm Giác Hải ở Vạn Giã, Nha Trang dịch giải. Thầy thường tìm cách lồng vào bài học là các câu chuyện ở chùa để gián tiếp dạy bảo anh em chúng tôi.
Thầy kể lại rằng, cụ Tâm Minh lúc đó rất lưu tâm đến việc đào tạo Tăng tài để gánh vác công việc Phật sự mai sau. Và vì nhờ am hiểu cả hai nền tân học và cựu học, tức là Hán văn và Tây học cho nên cụ được quý Ôn mời dạy cho quý Thầy tại Phật học đường Báo Quốc. Chúng ta đừng quên, cụ vừa là một Phật tử thuần thành gần gũi với giới bình dân và cũng là một bác sĩ y khoa của hàng trí thức khoa bảng. Bản chất của cụ là một con người thông minh, ham học nhưng đồng thời cũng rất khiêm nhượng, tôn kính chư Tăng. Do đó, mà trước khi bước lên bục hay ngồi vào bàn để giảng dạy, cụ đều đảnh lễ chư Tăng, mà lúc đó là học trò của cụ trên nguyên tắc, và chắc chắn có thầy tuổi còn kém hơn cụ rất nhiều.
Ðã gần hai mươi năm trôi qua, vậy mà tôi vẫn chưa quên sự xúc động của tôi lúc đó. Hẳn nhiên, tôi đã biết gì đến hạn khiêm cung của bồ tát Thường Bất Khinh trong kinh Pháp Hoa đâu. Tôi chỉ hình dung ra một con người, có đôi mắt sáng, đầy sự cương quyết trong lòng, và đặc biệt hơn hết, có cả trái tim của một vị Bồ Tát sống đúng với Chánh pháp. Tôi nghĩ, chưa kể đến những điều hiểu biết mà cụ trao truyền cho các học tăng, chỉ cần thái độ khiêm cung đó cũng đủ chất liệu cho một bài học vô giá rồi. Trong chúng ta, ai cũng có một bản ngã rất lớn lao mả qua bao đời kiếp ta đã tìm đủ mọi cách để củng cố, để tô bồi thêm. Khó khăn hơn nữa là khi có quyền hạn trong tay, ở vào một địa vị cao hơn người khác một chút, là ta đã để cho cái “bản ngã vị kỷ” đó tự tung tự tác, không kể gì đến sự tương kính, nhường nhịn. Khó thay cho chúng ta mà cũng đáng phục thay thái độ sống của một người cư sĩ Phật tử biết trọng Phật, kỉnh Tăng với hiểu biết của trí óc và chân thành của con tim.
Con người lý tưởng:
Năm tháng trôi qua, xúc động của hôm đó và hình ảnh cụ Tâm Minh tiếp tục ở lại trong lòng, sáng bước với cuộc đời tu hành của tôi. Tôi thường quan niệm, con đường Phật giáo là con đường hài hòa giữa mình với ta. Phật đã chế định giới luật và chỉ bày cách sống cho cả hai giới tại gia và xuất gia. Trên hết, trên con đường phụng sự lý tưởng giác ngộ, Tăng Ni và tín đồn cần có sự tương kính, hỗ trợ lẫn nhau, làm đẹp cho nhau. Do đó, tôi thường tìm cơ hội để gần gũi, tìm hiểu, học hỏi ở những vị cư sĩ đạo tâm, chuộng đời sống bình dị để có thể tích cực tu tập Chánh pháp. Nhân duyên đưa đẩy, tôi lại chọn con đường sinh hoạt với tuổi trẻ, mà trong đó có hình ảnh của Gia đình Phật tử, của chiếc áo lam thân yêu đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi từ lúc còn bé.
Lại thêm một lần không ngờ, đầy thích thú, khi tôi phát giác ra cụ Tâm Minh cũng là một trong những người đầu đàn thành lập và nuôi dưỡng tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam. Thì ra, cụ không chỉ là một người gần gũi với chư Tăng mà cũng là một con người đầy lý tưởng, muốn tạo một sức sống cho những người trẻ tuổi biết đạo đức, biết tôn quý những giá trị tinh thần. Chúng ta hãy đọc lại mục đích của tổ chức áo Lam: “Ðào tạo những thanh thiếu niên trở thành những công dân tốt của xã hội, sống theo tinh thần Phật pháp”. Thật là một việc làm rất ý nghĩa và đem lại lợi ích lớn lao cho gia đình và xã hội. Dĩ nhiên, chính các nhân của các huynh trưởng và đoàn sinh Gia đình Phật tử đã được thánh hóa, chuyển hóa khi theo đúng đường lối này.
Càng tìm hiểu thêm về con người của cụ, chúng ta càng kính phục sự hoạt động bền bỉ, đầy hăng sau của cụ. Một trong những nhân chứng sống mà tôi được tận tai nghe là hòa thượng Mãn Giác. Với giọng bình dân của người miền Trung, hòa thượng kể cho một số anh em tăng sinh trẻ tuổi nghe về cụ Tâm Minh và các hoạt động của Gia đình Phật tử lúc đó. Thầy nói: “Cụ Tâm Minh hăng hái lắm. Ra khỏi phòng mạch là đi thẳng về chùa, rồi hội họp với lớp trẻ lúc đó, như Võ Ðình Cường, chị Hoàng Thị Kim Cúc, có cả thầy Minh Châu nữa, lúc đó chưa xuất gia. Bộ tướng thì nhỏ người mà răng làm việc quá sức hăng say. Các thầy, ai cũng thương cụ”. Ðã hơn 50 năm trôi qua, cho đến hôm nay hình ảnh con người đầy nhiệt huyết của cụ vẫn có thể làm mẫu mực cho chúng ta.
Nuôi dưỡng tuổi trẻ:
Có một câu hỏi hơi thừa nhưng chắc chắn là không vô ích mà chúng ta có thể đặt ra ở đây: tại sao cụ tâm Minh và những người tiên phong lúc đó lại đặt nặng vấn đề nuôi dưỡng và giáo dục tuổi trẻ? Có người hy hiến cả đời mình cho tuổi trẻ không biết nhọc mệt, không than van gì cả. Trải qua 20 năm sống ở xã hội Tây Phương, chắc chắn đa số chúng ta đã thấy tuổi trẻ ở quốc gia nào mà bị băng hoại thì sẽ kéo theo một sự đổ vỡ lớn lao và lâu dài trong các sinh hoạt tại quốc gia đó. Ðối với cộng đồng Việt Nam chúng ta cũng vậy, có nuôi dưỡng thanh thiếu niên giữ được những nét truyền thống văn hóa thì chúng ta mới có hy vọng ở một tương lai tốt đẹp hơn. Hơn nữa, giáo lý nhà Phật lại có nền tảng hợp với sức sống của tuổi trẻ và tinh thần khoa học hiện đại thì chúng ta lại có nhiều triển vọng hơn và, dĩ nhiên, rất an tâm, đầy tin tưởng khi chọn con đường giáo dục tuổi trẻ. Vả lại, con đường mà Gia đình Phật tử Việt nam đã trải qua suốt nửa thế kỷ nay đã để lại nhiều chứng tích tốt đẹp và chứng nghiệm hùng hồn không ai chối cãi được.
Nhìn lại đội thiếu niên hay một chúng thiếu nữ quây quần bên nhau trong một lớp Việt ngữ, hay trong một khóa Phật pháp, chúng ta có cảm tưởng gì? Có hy vọng không? Rằng mai đây, các em lớn lên sẽ có thể đóng góp gì cho xã hội các em đang sống? Phải nói là chúng ta tràn trề hy vọng chứ. Tương quan nhân quả cho phép chúng ta nhận định như vậy. Bây giờ, các em đến với những sinh hoạt đạo đức tâm linh và học hỏi được những điều hay lẽ phải thì mai đây các em sẽ đem ra áp dụng trong đời sống và có thể làm đẹp cuộc đời, làm tốt cho con người. Vì vậy, bao nhiêu công trình mà người trước, và ngay cả bây giờ, quý anh, chị huynh trưởng các cấp đang đầu tư vào công cuộc nuôi dưỡng và giáo dục tuổi trẻ sẽ không vô ích chút nào; trái lại, hướng dẫn được tuổi trẻ theo con đường chơn chánh thì chúng ta vẫn còn có nhiều triển vọng cho một tương lai tốt đẹp hơn.
Hoài niệm người xưa mong mỏi cho hôm nay: Cả hai, bạn à. Chúng ta sắp sửa bước vào thế kỷ 21 với những tiến bộ quá mau của kỹ thuật, khoa học, trong khi đó, giá trị của đạo đức tâm linh lại theo đà xuống dốc thảm hại. Theo luật chung của cuộc đời thì phải vậy, Hơi có nhiều tiền một chút thì mình lại ham chơi, quên ngồi thiền, xao lãng việc tìm hiểu về đời sống tâm linh. Nhưng ai kia thì có thể như vậy, chứ chẳng lẽ mình lại nhắm mắt, bỏ đàn em đang trông chờ sự thương yêu dẫn dắt của chúng ta!
Tôi thiết tha nhắc lại hình ảnh của cụ Tâm Minh là để chúng ta, trước hết học hỏi ở một con người lý tưởng, ham phụng sự, sau nữa, chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa trong việc tìm kiếm một hướng đi thích hợp với tuổi trẻ. Chúng ta cần học hạnh khiêm nhường của cụ và học cách nhường nhịn lẫn nhau. Theo tôi, hơn lúc nào hết, bây giờ chúng ta cần có những con người biết hy sinh cho lợi ích chung và có thể dung hòa cho cả hai thế hệ vốn dĩ luôn luôn có sự xung đột, khác biệt. Họ đang ở đâu? làm gì? Nếu có thể đốt nến mà tìm ra được những con người đó thì bạn có chịu đi với tôi để cầu thỉnh, để gần gũi mà học hỏi những đức tính tốt của họ không?
Thật là may mắn nếu ở trong một tập thể mà có được hình ảnh những Phật tử biết uyển chuyển để có thể chấp nhận những ý kiến bất đồng. Rồi cũng trong chiều hướng vị tha, phóng xả, cố đem hết sức mình dâng hiến cho tổ chức mà họ sẵn sàng ngồi lại để cùng làm việc với nhau thì đó là những viên ngọc vô giá. Ðầu năm, đốt nén tâm hương, tưởng niệm cụ Tâm Minh như là một lời cần nguyện chân thành: xin anh linh của Cụ soi đường cho đàn hậu tấn, cho màu Lam vững bước tiến trên đường dẫn dắt tuổi trẻ, thương yêu tuổi trẻ.
___________________________________________
Chùm hoa Bát Chánh
Nguyên Phương Hoàng Trọng Cang
Năm nay năm Tân Tỵ là năm nhuận có hai tháng tư. Ngày Phật Ðản lại nhằm vào ngày Rằm Tháng Tư, nên năm nay Phật Tử chúng ta có hai ngày để tưởng niệm đến hình ảnh “Ðức Phật Hài Ðồng bước đi trên những đóa sen nở, một tay chỉ lên thiên thượng, một tay chỉ xuống thiên hạ với muôn ngàn hào quang chiếu sáng”. Hình ảnh này thật đáng trân quý vì chính là biểu tượng của câu “Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Ðộc Tôn”. Câu này là một tiếng chuông lớn lao vang dội khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới, tiếng chuông ngân mãi qua không gian và thời gian nhắc nhở cho chúng sinh rằng:” Trong vũ trụ trên trời dưới trời chỉ có Phật Tánh là đáng tôn quý mà thôi!”.
Thật vậy, thiên thượng là trên trời, thiên hạ là dưới trời, trên trời dưới trời là không gian và thời gian, đều là vũ trụ. Duy là chỉ có. Ngã là “Ðức Phật Hài Ðồng đang bước đi trên những đóa hoa sen nở”. Hài đồng hay hài nhi là em bé mới sinh ra, là biểu tượng cho Sự Sống. Nhưng em bé này là Phật Hài Ðồng. Nghĩa là em bé có Phật tâm, có lòng từ bi bao la. Phật Hài Ðồng này lại bước đi trên những đóa hoa sen nở. Hoa sen nở là tượng trưng cho Trí Tuệ sáng suốt, Trí Tuệ đã giác ngộ (Hoa Khai Kiến Phật). Cho nên hình ảnh ngày Phật Ðản là hình ảnh Ðức Phật Hài Ðồng bước đi trên những đóa hoa sen nở, là hình ảnh mang một ý nghĩa thật sự cao quý:” Sự sống tràn đầy tình yêu thương bao được trí tuệ sáng suốt giác ngộ nâng đỡ từng bước đi trên mọi nẻo đường đời”. Ðây cũng là ý nghĩa trọn vẹn và cao cả của chữ NGÃ trong câu “Thiên Thượng Thiên Hạ duy NGÃ độc tôn”. Ðộc là đơn độc một mình, Tôn là được tôn trọng. Ðộc tôn là một mình đáng được tôn trọng. Vì vậy câu “Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Ðộc Tôn” có thể chuyển thành câu “Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Phật Tánh Ðộc Tôn”. Vì là Phật Tánh tất nhiên phải bao hàm đủ cả Sự Sống, Tình Thương và Trí Tuệ.
Phật Pháp xác nhận tất cả mọi chúng sinh đều có Phật Tánh, tất nhiên mọi chúng sanh đều có Sự Sống, Tình Thương và Trí Tuệ. Vậy chúng ta còn đòi hỏi gì nữa khi chúng ta tin tưởng rằng chúng ta đã có sẵn cái “không gì quý hơn” đó. Trong vũ trụ này không còn gì quý hơn Phật Tánh! Mừng thay! Vui thay! Nhưng biết mình có sẵn Phật Tánh là một chuyện, còn sống thực tế để hiển lộ được Phật Tánh lại là một chuyện vô cùng khó khăn. Biết con đường dẫn tới mục tiêu là một vấn đề mà thực hiện được những bước đi ngay thẳng trên con đường đó cũng là một vấn đề khác.
May mắn thay cho chúng ta, chính Ðức Phật Hài Ðồng đã dày công tạo dựng cho chúng ta một Vườn Hoa Phật Pháp, trồng đủ muôn ngàn loại hoa, hoa nào cũng đầy đủ muôn ngàn hương sắc vi diệu quý báu. Chúng ta, những đoàn viên của tổ chức GÐPT, đã có nhiều dịp tham quan Vườn Hoa Phật Pháp. Thật là một điều may mắn được thưởng thức hương vị màu sắc của những cánh hoa những cụm hoa những chùm hoa trong Vườn Hoa Phật Pháp. Nhưng điều quan trọng không nên quên là chúng ta cũng có vườn hoa Tâm của chúng ta và cũng không nên quên là Vườn Hoa Tâm này cũng cần được chăm sóc thường xuyên, thường xuyên nhổ cỏ dại và thường xuyên trồng thêm hoa thay chỗ cho cỏ dại. Các giống hoa cần có để gieo trồng trong vườn hoa Tâm chính là những hạt giống từ Vườn Hoa Phật Pháp. Chúng ta đã từng tham quan Vườn Hoa Phật Pháp, từng làm quen với cụm hoa “Pháp, Vạn Pháp, Phật Pháp và Chánh Pháp”, với chùm hoa “Nhân – Duyên – Quả, Nghiệp Báo, Y Báo, Chánh Báo” v.v.. Chúng ta hãy sắp xếp thời giờ để có thì giờ nhiều hơn nữa để lần lượt tham quan thêm những khóm hoa khác. Ðôi khi có những chùm hoa khác được giới thiệu, được hướng dẫn tham quan nhưng chưa được ngắm kỹ, chưa được thưởng thức hương vị đầy đủ, chúng ta cũng nên “nghiên cứu” lại.
Thí dụ như chùm hoa “Bát Chánh” hay chùm hoa Tám Ðúng chẳng hạn. Nhiều người nhìn lại thấy loại hoa này, nhưng không nhìn thấy cả chùm hoa mà chỉ thấy lẻ tẻ từng đóa hoa rời rạc. Thích đóa hoa nào thì chọn đó mà thưởng thức thôi, chứ không biết kết chúng lại thành một chùm hoa. Tám đóa hoa trong một chùm hoa Bát Chánh được “cắm” theo thứ tự trước sau nhất định, nhưng không thể thay đổi thứ tự đó được. Ðóa hoa Chánh Kiến (thấy đúng) đứng hạng nhất, vì sự việc gì cũng phải được nhìn thấy đúng ngay hiện tại trước mắt với hiện tình, hiện trạng với nhu cầu cần phải giải quyết. Sau khi vấn đề được “Thấy Ðúng”, Chánh Tư Duy (suy nghĩ đúng) phải kế tiếp ngay chánh kiến cũng như tương lai phải kế tiếp hiện tại. Suy nghĩ đúng nhằm giải quyết đúng vấn đề đã thấy đúng. Giải quyết tức là vạch kế hoạch, vạch chương trình, đặt phương thức giải quyết. Tóm lại là suy nghĩ những gì phải làm trong tương lai. Chúng ta thấy rõ Chánh Kiến liên hệ với hiện tại, và Chánh Tư Duy liên hệ đến tương lai. Sau khi đã suy nghĩ chín chắn rồi, đóa hoa Chánh Tư Duy sẽ liên hệ với đóa hoa Chánh Ngữ để triệu tập một cuộc họp thảo luận vấn đề đã được suy nghĩ đúc kết, các kế hoạch, các chương trình, các phương thức phải được trình bày ra bằng ngôn ngữ, để mọi người tham gia phát biểu ý kiến, đề nghị, bổ sung, quyết định và phân công. Sau giai đoạn Chánh Ngữ phải là giai đoạn thi hành (hành vi tạo nghiệp) thực hiện đúng những điều đã được quyết định. Ðây là giai đoạn của đóa hoa Chánh Nghiệp. Mỗi người tùy theo phân công phân nhiệm mà thi hành đúng bổn phận của mình đã chấp nhận. Mỗi người phải ý thức được sứ mạng mà đoàn thể đã tín nhiệm giao phó và hoàn thành tốt sứ mạng đó, từ đầu chí cuối. Ðóa hoa Chánh Mạng luôn luôn kề bên đóa hoa Chánh Nghiệp để giữ đúng vai trò một hạt Bồ Ðề trong chuỗi Bồ Ðề. Vấn đề của Chánh Kiến sẽ không được thành tựu mỹ mãn nếu thiếu tỉnh thức, thiếu tự giác, tự thúc đẩy không hăng hái chu toàn từng giai đoạn giờ phút để hoàn thành tốt đẹp phần vụ của mình. Vì vậy mà đã có hoa Chánh Tinh Tấn cắm bên cạnh hoa Chánh Mạng để thúc đẩy, khuyến khích tinh thần tinh tấn. Cùng một lúc hoa Chánh Tinh Tấn liên hệ với đóa hoa thứ bảy, đóa hoa Chánh Niệm, để hoa này thầm nhắc nhở những sự việc thuộc về quá khứ, thuộc về những kinh nghiệm. Nhớ lại những thành công và thất bại trong quá khứ để hỗ trợ cho hiện tại trong việc xây dựng tương lai. Chánh Niệm tức nhớ nghĩ đúng về những ưu khuyết điểm đã có trong quá khứ để giúp cho Chánh Tinh Tấn có thêm sức thúc đẩy Chánh Mạng. Hoa Chánh Niệm chỉ là một trong tám đóa hoa của chùm hoa Bát Chánh. Có đủ bảy đóa hoa “Chánh” trên đây cũng chưa thể có được một chùm hoa tuyệt hảo. Phải có thêm đóa hoa thứ tám, tuy đứng hạng chót nhưng cũng không kém phần hương sắc, có khi còn là quan trọng nữa là khác, đó là hoa Chánh Ðịnh. Không có hoa Chánh Ðịnh nối liền Chánh Niệm và Chánh Kiến, có nghĩa là nối liền quá khứ và hiện tại thì cái Quả “thành tựu” của vấn đề do Chánh Kiến đưa ra khó mà đạt được. Chánh Ðịnh là chất keo làm cho chùm hoa tám đóa gắn liền với nhau chặt chẽ không rời rạc, sẵn sàng làm đẹp cho cuộc đời trong bất cứ vấn đề nào của Sự Sống, Tình Thương và Trí Tuệ.
Chùm Hoa Tám Ðúng nếu được gieo trồng trong vườn hoa Tâm của chúng ta sẽ giúp chúng ta giải quyết mọi vấn đề trong đời sống hàng ngày với ba điều kiện: đúng thời gian thích hợp, đúng nơi chốn thích hợp, và đúng với nguyện vọng của mọi người. Mọi người đều muốn có một sức khỏe dồi dào, một tâm hồn vui vẻ nhẹ nhàng, và một trí tuệ bình tĩnh sáng suốt. Gia đình nào cũng muốn có an lạc hạnh phúc, ổn định công việc nghề nghiệp, và mỗi ngày cuộc sống mỗi thêm tươi đẹp. Nhưng vì không biết áp dụng phương thức “Tám Ðúng”, không biết thưởng thức hương vị của chùm hoa Bát Chánh để giải quyết mọi vấn đề của đời sống cá nhân, gia đình và xã hội nên cứ luẩn quẩn trong vòng đau khổ.
Nhân dịp tưởng niệm hình ảnh “Ðức Phật Hài Ðồng bước đi trên những đóa sen nở! “của ngày Phật Ðản, chúng ta hãy kết một chùm hoa “Bát Chánh” để thân tặng cho mọi người chưa có dịp tham quan Vườn Hoa Phật Pháp.
___________________________________________
Góp bàn về
đường hướng giáo dục trong GÐPT
Phúc Trung Huỳnh Ái Tông
I. Nguyên lai:
Nhận được Ðiện thư của Quảng Pháp yêu cầu viết bài đóng góp ý kiến về Ðường Hướng Giáo Dục Trong Gia Ðình Phật Tử, tôi muốn từ chối không phải vì tôi bận nhiều việc, nhưng vì những ưu tư tôi cũng có, nhưng chưa bao giờ đào sâu vấn đề, viết e chỉ là sự thiển cận. Nhưng không thể từ chối được vì Quảng Pháp đã gõ cửa nơi tôi, tôi im lặng làm cho Quảng Pháp thất vọng là điều không nên, do đó tôi viết bài này. Tôi nghĩ ý kiến đóng góp có Ðược hay Không là chuyện khác, mà đóng góp ý kiến là việc phải làm.
II. Nội dung:
Ðể đi tới trọng tâm của vấn đề, chúng tôi xin chia bài này ra làm 3 phần:
1. Mục đích của Gia Ðình Phật Tử.
2. Ðánh giá thành quả sau gần 60 năm hoạt động từ trong nước ra hải ngoại.
3. Ðặt lại Ðường Hướng cho thích hợp với thực tại.
Chắc chắn Huynh Trưởng ai cũng thuộc nằm lòng: Mục đích của Gia Ðình Phật Tử là đào tạo Thanh, Thiếu, Ðồng Niên trở thành những Phật Tử chân chánh và góp phần vào việc cải tạo xã hội theo tinh thần Phật Giáo. Mục đích ấy chúng ta đã làm, giáo dục để trở thành Phật Tử chân chính thì Gia Ðình Phật Tử đã nhờ chư Tăng, Ni dạy giáo lý, mỗi buổi lễ Phật chúng ta điều nhắc đến năm điều luật cho Thanh Thiếu Niên:
– Phật tử quy y Phật Pháp Tăng và giữ giới đã phát nguyện.
– Phật tử mở rộng lòng thương và tôn trọng sự sống.
– Phật tử trau dồi trí tuệ và tôn trọng sự thật.
– Phật tử sống trong sạch từ thể chất đến tinh thần từ lời nói đến việc làm.
– Phật tử sống hỷ xả để dũng tiến trên đường đạo.
Và 3 điều luật cho Ðồng niên:
– Em tưởng nhớ Phật.
– Em kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em.
– Em thường người và vật.
Như thế, các em nhỏ được nhắc nhở để phát triển tình cảm, lòng nhân từ, còn Thanh Thiếu Niên phát triển lý trí và thực hành. Nhưng chúng ta đã có khi nào đặt câu hỏi: Gia Ðình Phật Tử đã mang lại thành quả gì cho Phật giáo và cá nhân sau thời gian dài hình thành và tồn tại. Nếu chúng ta chỉ nhìn chung chung là có quý vị trụ trì yêu cầu thành lập Gia Ðình Phật Tử, điều đó cho phép chúng ta nghĩ Gia Ðình Phật Tử đã mang lại kết quả tốt nên mới được yêu cầu, cho phép sinh hoạt trong chùa. Ngược lại cũng có Gia Ðình Phật Tử bị cấm cửa, phải chăng đó biểu hiệu GÐPT không mang lại kết quả tốt?
Nhìn lại những anh Trưởng của chúng ta như Võ Ðình Cường, là nhà văn, anh từng là Giảng viên của Phật học Ðường Ấn Quang, do Hòa Thượng Thích Thiện Hòa làm Ðốc giáo vào thập niên 50, nguyên chủ bút sáng lập báo Giác Ngộ, nay là chủ bút một tờ báo Phật Giáo khác. Anh Tống Hồ Cầm nay là Phó Tổng Biên Tập báo Giác Ngộ, Hiệu Phó Trường Phật Học, nơi đào tạo nhiều Tăng, Ni, anh Lê Cao Phan ngoài bản nhạc Phật Giáo Việt Nam để đời, anh còn là dịch giả Truyện Kiều sang Pháp Văn và Anh Văn, sách này do tổ chức Văn Hóa Liên Hiệp Quốc (Unesco) ấn hành, còn những Trưởng khác như Hoàng Thị Kim Cúc, Văn Ðình Hy, Lữ Hồ Nguyễn Minh Hiền, Phạm Mạnh Cương, Trần Thanh Hiệp, Hoàng Trọng Cang, Cao Chánh Hựu… là những người có tên tuổi, địa vị trong xã hội, có những đóng góp cho Phật giáo. Nhưng đó là những Trưởng Tiên phong của phong trào GÐPT, còn những người được GÐPT đào tạo có được những ai? Tôi chỉ biết chị Trịnh Thị Minh (GÐPT Chánh Ðạo), tốt nghiệp Sư Phạm được bổ làm Giáo sư Trường Gia Long rồi chị nghỉ sinh hoạt, anh Tôn Thất Sỹ (GÐPT Chánh Ðạo), tốt nghiệp Ðốc sự Quốc Gia Hành Chánh khóa 17, Phó Quận Trưởng Sơn Hà, Quảng Ngãi, sau bị Việt Cộng sát hại tại đây. Bác sĩ Hùng (GÐPT Chánh Minh), chị Tôn Nữ Thanh Lan (GÐPT Chánh Minh) sau làm Hiệu trưởng Trung Học Tư Thục Nông Lâm Súc ở Chợ Lớn. Chị Nguyễn Thị Ngọc Sương (GÐPT Chánh Minh) tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh, giữ chức Chủ Sự Phòng ở Bộ xã Hội, đó là những người sinh hoạt GÐPT vùng Sài Gòn Gia Ðình mà tôi được biết đã thành công trong xã hội. Còn những Trưởng đã quy y đầu Phật như Trưởng Liên Phú (GÐPT Chánh Ðạo), nay là Thượng Tọa Chân Kim trụ trì một ngôi chùa ở Ðơn Dương Ðà Lạt, Trưởng Liêu (GÐPT Chánh Thọ), Trưởng Hát Liên Ðoàn Trưởng (GÐPT Giác Huệ, Hóc Môn), Trưởng Kiến Tánh (GÐPT Minh Tâm), xuất gia rồi làm Tuyên Úy Phật Giáo ở Sư Ðoàn 23 Bộ Binh, đóng tại Ban Mê Thuột. Trưởng Văn Tâm Sỹ nguyên là Liên Ðoàn Trưởng (GÐPT Chánh Ðạt, GÐPT Giác Dương), sau xuất gia làm Tuyên Úy Phật Giáo Vùng 1, nay trụ trì một ngôi chùa ở Ðà Nẳng.
Mặc dù trong thời gian Pháp nạn 1963, cũng như gần đây không thiếu gương hy hiến của những Ðoàn sinh và Huynh Trưởng GÐPT cho đạo pháp và dân tộc. Phong trào Gia Ðình Phật Tử Việt Nam, trước 1975 vài trăm ngàn Ðoàn sinh, vài chục ngàn Huynh Trưởng trong toàn quốc (cuối năm 1995 GÐPT Việt Nam phục hoạt lại, có 1496 đơn vị, 219 ngàn Ðoàn viên, 27 ngàn Huynh Trưởng), thành quả nêu trên chỉ ở địa bàn Thủ đô Sài Gòn quả con số quá khiêm nhường ở ngoài xã hội cũng như trên đường Ðạo, kinh nghiệm ấy đáng cho chúng ta làm một công cuộc nghiên cứu về thành quả đào tạo hay giáo dục trong Gia Ðình Phật Tử.
Ở Việt nam, Gia Ðình Phật Tử làm nhiệm vụ khỏa lấp sự thiếu thốn của ngành giáo dục, bởi vì ngành giáo dục xã hội chủ nghĩa chỉ dạy con em của họ nhớ tới công ơn của Bác và Ðảng chớ không hề dạy học sinh nhớ ơn cha mẹ, hòa thuận với anh chị em. Gia Ðình Phật Tử đem tới cho con em họ biết về đạo Phật về Công đức Sinh thành, cũng nhờ vậy mà GÐPT mới có thể được chấp nhận cho sinh hoạt trong phạm vi các chùa.
Ở Mỹ, nối tiếp truyền thống GÐPT Việt Nam, các GÐPT hình thành và sinh hoạt dưới sự thương yêu và đùm bọc của chư Tăng, Ni đã dành cho GÐPT uyển chuyển về tổ chức, đáng leo ra chúng ta có nhiều thuận duyên hơn, trái lại chúng ta gặp một số khó khăn vì đối tượng Ðoàn sinh của chúng ta ở nước ngoài khác hơn trong nước, do triết lý dẫn đạo về giáo dục ở ngoại quốc khác hơn trong nước, học sinh rất tự do, chính thế mà Ðoàn sinh của chúng ta có phong thái tự do ấy khi đi sinh hoạt, đây là vấn đề mà người Trưởng cần phải thấy rõ căn bản nền giáo dục của nước ngoài, để từ đó có được kinh nghiệm điều khiển các em. Nhìn lại những môn học trong Gia Ðình Phật Tử ở hải ngoại, có thể chia làm 3 phần: Phật pháp. Chữ Việt. Các môn chuyên môn khác.
Cho đến nay, quyển Phật Pháp do chư Ðại Ðức Minh Châu, Thiên Ân, Ðức Tâm và Chân Trí soạn in lần đầu năm 1951 được tái bản nhiều lần vẫn là sách dạy Phật Pháp căn bản và cần thiết, nhưng ở hải ngoại, các em đều đến trường học tiếng nước ngoài cho nên khó mà học Phật Pháp theo sách ấy. Sách viết về đạo Phật bằng Anh ngữ hay Pháp ngữ có rất nhiều, viết rất có hệ thống và viết theo tư duy của người Tây Phương, Huynh Trưởng nào có trình độ ngoại ngữ có thể đọc, nhưng đoàn sinh không thể đọc vì sách không phải viết cho các em. Cho nên một quyển sách dạy Phật Pháp viết bằng Anh ngữ, Pháp ngữ… cho các cấp học rất cần thiết. Theo quyển Phật Giáo Mỹ của Trần Quang Thuận, cho biết năm 1848, người Hoa ở vùng núi vàng (Kim Sơn) rất ít, năm sau có 300 thương gia người Hoa gặp nhau ở một tiệm ăn Quảng Ðông. Ðến năm 1852, có 20 ngàn người Hoa đến Hoa Kỳ làm công nhân, đến năm 1860 họ chiếm một phần mười dân số California, cuối thế kỷ 19 có 63 ngàn người Hoa sinh sống ở Hoa Kỳ và họ đã xây dựng được 400 ngôi chùa Phật. Vậy mà đến nay những ngôi chùa ấy không còn Nữa, đoạn ấy tác giả viết:… ”Cuối năm 1875 tại phố Tàu (San Francisco) có 8 ngôi chùa được thành lập, cuối thế kỷ thứ mười chín, khắp nước Mỹ từ San Diego đến Vancouver, đến miền Sierra Nevada trên 400 ngôi chùa Trung Hoa được xây cất, đến nay hầu hết những ngôi chùa ấy không còn Nữa, một phần vì không có Thầy trụ trì, bảo quản, phần khác vì những thế hệ sau số người cải đạo quá nhiều, không đủ sức để duy trì, phần khác vì Phật Giáo Trung Hoa không hội nhập vào xã hội Hoa kỳ, trong khi thế hệ trẻ thì đã bị Mỹ hóa từ nếp sống đến ngôn ngữ…” (trang 199) Ðoạn văn trên đây rất quan trọng, vì tác giả cho chúng ta biết những nguyên nhân làm cho Phật Giáo Trung Hoa trên đất Mỹ đã có 400 ngôi chùa, nay những ngôi chùa ấy không còn. May mắn thay người Việt chúng ta ở Mỹ có thể đến 1 triệu người rải rác khắp các tiểu bang, đông người Việt nhất vẫn là California, cho đến nay trên đất Mỹ có chừng 220 ngôi chùa Việt Nam, con số đó vẫn còn thua 400 ngôi chùa người Hoa ở cuối thế kỷ 19, có thể tình thế ngày nay tốt hơn vì Ðạo Phật đã được người Mỹ tín ngưỡng hay đã được người Mỹ dung nạp Zen vào đời sống của họ, tuy thế hệ trẻ Việt Nam có hội nhập vào đời sống Mỹ, Mỹ hóa nhưng không có phong trào cải đạo, bởi vì người Mỹ còn đi tìm đến Zen. Nhưng nếu người Việt chúng ta không biết gìn giữ và vun trồng Văn hóa Việt trong thế hệ trẻ, thì rồi cũng dẫn đến thế hệ trẻ không có đức tin về đạo Phật, không đi chùa, không có tu học. Cho nên dạy chữ Việt để chúng ta ngoài việc truyền bá đạo Phật cho các em, còn vun trồng nơi tâm hồn và đời sống các em nền văn hóa Việt. Các môn học khác như Gút, Morse, Cứu thương, Văn nghệ… chỉ là những môn phụ, giúp cho môn học chính vẫn là Phật pháp. Do những nhận định nêu trên, cho phép tôi nghĩ đến Ðường Hướng Giáo Dục trong Gia Ðình Phật Tử ở Hải ngoại:
A. Về Phật Pháp:
- Ðối với các em Nam Nữ Oanh Vũ: Chủ điểm dạy cho các em biết kính Phật, trọng Tăng, yêu thích việc đi chùa, phát huy 3 điều Luật.
- Ðối với Thanh Thiếu Niên:
a) Tạo cho đoàn sinh có đức tin về đạo Phật: Ðức Phật là nhân vật lịch sử. Ðạo Phật là đạo giải thoát, từ bi, trí tuệ
b) Phương pháp tu học hàng ngày: Dạy cho các em biết các pháp môn tu tập Thiền, Tịnh, Mật, Giáo là:. Ngồi thiền… Tụng kinh… Niệm Phật… Trì chú. Tùy theo hoàn cảnh và sở thích, tùy các em lựa chọn một phương pháp thích hợp để thực hành hàng ngày.
c) Sống theo Phật pháp một người Phật Tử chân chánh phải hành trì hàng ngày theo lời Phật dạy: Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành. Tự tình kỳ ý. Thị chư Phật giáo. Tạm dịch: Ðừng làm điều ác. Việc thiện nguyện làm Tự tình ý này, Ấy lời Phật dạy. Cũng cần hiểu hơn một chút là Phật giáo Bắc Tông đặt mục đích khá cao, ngay từ Phật được định nghĩa là Giác Giả, là Giác Giả gồm có mình giác ngộ (tự giác), đem điều giác ngộ ấy giúp cho người khác cũng giác ngộ (giác tha), cả hai đều mang lại thành tựu tốt đẹp (giác hạnh), đó là công hạnh của người chứng quả Phật.
d) Ðạo Phật là đạo thực hành và liệu: Trong đạo Phật người ta thường gặp những câu trong kinh điển như: ”bất khả tư nghì”, ”bất khả ngôn thuyết”, ”ngôn ngữ đoạn đạo”. Nghĩa là ngôn ngữ không thể diễn tả sự thực, hay là cái đó không thể nói, không thể nghĩ bàn. Cái đó không phải có, không phải không không phải vừa có không phải vừa không. Muốn hiểu cái đó chỉ có tu tập để thực chứng và đạo Phật là đạo trị liệu, khi chúng ta sợ hãi, hãy niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm, khi người ta bị Stress, bị bệnh nan y như ung thư, người ta thực hành Zen như một diệu pháp để chữa trị., nhiều người đã đạt được thành quả không thể ngờ trong các khóa học ZEN. Ðó là sự thật. Nếu không phải thế thì tại sao những thiền sư tuổi thọ đều cao, ở Việt Nam thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường đã thăng hóa trong tư thế ngồi Thiền, để lại xá lợi toàn thân ngày nay còn thờ tại chùa Ðậu ở Hà Tây.
Ở Trung Hoa ngoài Lục Tổ để lại toàn thân xá lợi còn có gia đình Bàng Cư Sĩ, con gái Bàng Long Uẩn dành chỗ thăng hóa trước ông, con trai nghe tin em gái và cha đã thăng hóa cũng thăng hóa ngay khi đi cày ở ngoài ruộng lúa. Những trường hợp trên chứng tỏ có hành thiền thì chứng đắc dù là tu sĩ hay cư sĩ.
B. Về chữ Việt:
- Các em Nam Nữ Oanh Vũ: Dạy cho biết đọc chữ Việt. Chọn những chuyện cổ tích Việt Nam nói về phong tục, tập quán của người Việt, như chuyện Trầu Cau, Thằng Bờm…
- Với Thanh Thiếu Niên: Chọn những bài Ca dao, Thi ca, truyện nội dung mang chứa đạo tình, dân tộc cho các em đọc, tự tóm tắt câu chuyện, rút ra kết luận về ý nghĩa bài đọc.
a) Về Ca dao, ví dụ chọn những câu như:
– Ðêm đêm thắp ngọn đèn trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
– Mẹ già như chuối ba hương,
Như cơm nếp một như đường mía lau.
– Lênh đênh qua cửa Thần Phù,
Khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm
– Ðông ba Gia Hội Hai Cầu,
Có chùa Diệu Ðế, bốn lầu hai chuông.
b) Về Thi ca, ví dụ chọn những bài như: Hương Sơn Phong Cảnh Chu Mạnh Trinh
Ðàn thông phách suối vang lừng,
Cá khe lắng Kệ, chim rừng nghe Kinh.
Bầu trời cảnh Bụt
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay.
Kìa non non nước nước, mây mây,
Ðệ nhất động hỏi rằng đây có phải?
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lững lờ khe Yến cá nghe Kinh.
Vẳng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này hang Phật Tích, này động Tuyết Quỳnh,
Nhác trông lên ai khéo họa hình,
Ðá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây.
Chừng giang sơn còn đợi ai đây,
Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt.
Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật,
Cửa từ bi công đức xiết bao.
Càng trông phong cảnh càng yêu.
c) Về Truyện chọn những bài như: Bông Hồng cài Áo của Thiền Sư Nhất hạnh, Mẹ Tôi của Sư Bà Thể Quán, Con Thằn Lằn chọn nghiệp của Hồ Hữu Tường, hoặc những chuyện trong Ðường Vào Nội Tâm của Ni Cô Trí Hải… (những truyện này ở trên Internet đã có)
Những môn khác như Gút, Morse, Cứu thương, Văn nghệ… chỉ là môn phụ để giúp cho việc học Phật Pháp, có những môn cần bỏ đi vì quá chuyên biệt và có thể lỗi thời như Sémaphore, đưa tin học vào, như biết vào internet, viết, gửi nhận điện thư, biết truy cập những bài đọc trên Internet.
Trại Tu Học: Ở Mỹ, giáo viên hàng năm đều có thời gian tu nghiệp trong dịp Hè, cho nên Huynh Trưởng chúng ta thiết tưởng cũng phải có thời gian trao dồi nghề trưởng của mình (tu nghiệp), nội dung có thể là thỉnh, mời chư Tăng, Ni hay những vị thiện tri thức thuyết trình về các đề tài Phật giáo như về Duyên Khởi, Kinh Lăng Già, Kinh Thắng Man, Trung Quán Luận, Câu Xá Luận… về vi tính, Internet…
III. Kết Luận:
Vốn biết rằng mình tài sơ trí thiển, lại ở chốn không có hoàn cảnh để sinh hoạt GÐPT, những ý kiến của tôi nêu trên là những suy tư từ lâu, tôi đang soạn một tập sách dạy vỡ lòng chữ Việt với 60 bài thì các em biết đọc, thêm 20 bài Nữa để các em biết qua phong tục tập quán, lược sử Việt Nam ta, sách còn đang soạn phần từ vựng, tôi có ý định khi xong sẽ đưa lên mạng, giúp cho ai muốn dạy hay học chữ Việt. Ðó là sự thể hiện tấm lòng mình vào những gì tôi đã suy tư về Ðường hướng Giáo dục trong Gia Ðình Phật Tử Việt Nam ở Hải Ngoại.
___________________________________________
Giáo dục tuổi trẻ
bằng Chánh Pháp
Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Tham luận của nhân Ðại Hội Gia Ðình Phật Tử Việt Nam tại Hoa Kỳ
vào thượng tuần tháng 4 năm 2004 tại chùa Diệu Pháp, thành phố San Gabriel, California, Hoa Kỳ)
Kính thưa quý anh chị em Gia Ðình Phật Tử,
Ngay từ những ngày đầu có mặt, cách nay trên sáu mươi năm, Gia Ðình Phật Hóa Phổ rồi đến Gia Ðình Phật Tử Việt Nam đã thể hiện rõ tâm nguyện muốn đem đạo Phật vào sinh hoạt của từng cá nhân, vào nếp sống gia đình, và qua đó, đem đạo Phật vào xã hội. Ðây có thể nói là phương cách truyền bá Chánh pháp không những mang tính sáng tạo, tính thời đại, mà còn đem lại những thành tựu cụ thể và to lớn trên bình diện xã hội.
Cũng ngay từ bước đầu ấy, những nhà sáng lập Gia Ðình Phật Tử Việt Nam đã xác định hai vấn đề trọng yếu, đó là đối tượng và phương pháp Phật hóa gia đình. Về đối tượng thì nhắm đến tuổi trẻ và phương pháp là giáo dục trong tinh thần của đạo Phật. Sở dĩ chọn tuổi trẻ vì hai lý do: Thứ nhất, tuổi trẻ là giai kỳ tốt nhất và cần nhất cho sự huân tập và nuôi dưỡng. Thứ hai, tuổi trẻ là mầm non của tương lai, là yếu tố chủ chốt cho sự phát triển, là thế hệ kế thừa và gánh vác trọng trách mai hậu. Phương thức quan trọng nhất để đạt đến kết quả toàn hảo trong việc huân tập, nuôi dưỡng và phát triển tuổi trẻ không gì hơn là giáo dục. Qua giáo dục bằng Chánh pháp, con người có thể được chuyển hóa ba nghiệp thân, miệng và ý để giải khổ những nghiệp bất thiện hầu hướng đến mục đích giác ngộ và giải thoát hoàn toàn. Tuy nhiên, chúng ta cần phải đặt lại một cách nghiêm túc vấn đề này, đó là bằng cách nào để ứng dụng phương thức giáo dục trong tinh thần Chánh pháp đối với tuổi trẻ Gia Ðình Phật Tử Việt Nam để đạt đến thành tựu mỹ mãn nhất?
Ý nghĩa giáo dục:
Ðể trả lời cho câu hỏi trên, trước hết chúng ta phải hiểu nội dung của giáo dục và giáo dục theo tinh thần của Chánh pháp là gì. Vậy giáo dục là gì? Dục là nuôi dưỡng, chăm sóc làm cho khôn lớn, làm cho trưởng thành, làm cho phát triển, làm cho siêu việt cả hai mặt tinh thần và thể chất. Giáo là dạy dỗ, là hướng dẫn, là chỉ bày, là khai thị bằng cả thân, khẩu và ý. Khẩu giáo là dùng lời lẽ để dạy dỗ. Thân giáo là dùng nghi biểu của thân hành để dạy dỗ. Ý giáo là đem tâm nguyện, đem tấm lòng vì sự nghiệp giáo dục con em, vận dụng hết khả năng để hoàn thành mục tiêu cao cả. Như vậy giáo dục tuổi trẻ tức là lấy sự dạy dỗ, sự khai thị bằng cả thân, khẩu và ý giáo như là chất liệu để nuôi dưỡng tuổi trẻ, làm cho tuổi trẻ trưởng thành, làm cho con em nên người.
Ðó là ý nghĩa của giáo dục bình thường, còn giáo dục theo tinh thần của Chánh pháp là gì? Là dạy dỗ, nuôi dưỡng tuổi trẻ bằng Chánh pháp của đức Phật. Nhờ thấm nhuận Chánh pháp mà tuổi trẻ trưởng thành, mở tâm và trí để phát huy diệu lực của từ bi và trí tuệ hầu thành tựu mục tiêu giác ngộ và giải thoát cho tự thân và muôn loại chúng sinh.
Những yếu tố căn bản:
Ðể hoàn thành mục đích của giáo dục tuổi trẻ Gia Ðình Phật Tử Việt Nam, chúng ta cần quan tâm và đáp ứng một số những thành tố quan yếu sau đây:
Thứ nhất, Chánh pháp là pháp môn khai thị sự liễu ngộ và thân chứng, không phải là hệ thống lý thuyết thuần lý mang tính hý luận. Liễu ngộ là giác ngộ bản thể của vạn pháp. Thân chứng là tự thân tu tập để chứng nhập vào cảnh giới thánh trí tự chứng của chư Phật, hay là tri kiến Phật. Như vậy, Chánh pháp là con đường diệt khổ và chứng đắc Niết bàn. Muốn diệt khổ và chứng Niết bàn thì phải vận dụng đến trí tuệ Bát nhã. Ngoài con đường khai mở trí tuệ để giác ngộ bản chất các pháp ra không còn con đường nào khác để diệt khổ và dẫn đến Niết bàn được. Cho nên, nội dung của Chánh pháp cũng là nội dung của trí tuệ giác ngộ. Trong ý nghĩa đó, giáo dục bằng Chánh pháp tức là chỉ bày, dạy dỗ cho tuổi trẻ hưng phát và thành tựu trí tuệ giác ngộ để lấy đó làm chất liệu nuôi dưỡng và trưởng thành cho con em. Trí tuệ giác ngộ không phải là tri thức thường nghiệm bị điều động bởi vô minh và các phiền não như tham, sân và si chỉ biết phục tùng theo bản tánh điên đảo của chúng sinh. Trí tuệ giác ngộ là nhận thức quán triệt đối với thực thể của tất cả mọi hiện tượng có khả tính vượt lên trên những trói buộc và tận diệt khổ đau.
Thứ hai, tuy nhiên, vấn đề khó khăn là giáo dục Chánh pháp bằng cách nào để tuổi trẻ có thể phát triển được trí tuệ giác ngộ? Thật ra chúng ta đã có được phân nửa câu trả lời cho câu hỏi này rồi. Phân nửa ấy chính là bản thân Chánh pháp đã là những lời dạy, những chỉ dẫn, những khai thị cho trí tuệ giác ngộ. Phân nửa còn lại của câu trả lời là phương thức mà nhà giáo dục sử dụng để giúp tuổi trẻ tự khai phá ra nguyên lý, tự thẩm thấu vào nội dung Chánh pháp. Ở đây chúng ta cần đặc biệt lưu ý đến hai điểm: Thứ nhất, bản thân Chánh pháp là những khai thị cho trí tuệ giác ngộ. Thứ hai, phương thức giúp tuổi trẻ tự khai phá ra chân lý, tự thẩm thấu vào Chánh pháp. Về điểm thứ nhất, tự thân Chánh pháp là những khai thị cho trí tuệ giác ngộ. Không có bất cứ một điều gì trong Chánh pháp, hay một lời dạy nào của đức Phật, mà không là khai thị cho trí tuệ giác ngộ. Chẳng hạn, đức Phật dạy về giáo lý vô thường. Vô thường, như vậy, không phải là một phạm trù tư tưởng hay triết lý chỉ để suy tư theo chiều vọng niệm của tri thức thường nghiệm, cũng không phải là một chủ đề giáo dục thuần túy để bắt các học sinh phải học thuộc lòng, phải viết các bài luận văn. Vô thường là một khai thị về thực thể của các pháp, rằng tự thân các pháp thì không bất động, không thường hằng, mà luôn luôn biến dịch, thay đổi, chuyển vận, bất an, khổ não. Nhưng vấn đề không phải chỉ biết một cách từ chương, máy móc như vậy là đủ để thẩm thấu Chánh pháp. Vấn đề là đối với tất cả pháp chúng ta có thể thâm nhập vào ý nghĩa vô thường bằng chính kinh nghiệm thực chứng của bản thân chúng ta. Ðiều này có nghĩa là đối với ý nghĩa vô thường, chúng ta không phải chỉ hiểu biết suông mà còn có quá trình tư duy, tâm đắc, nghiệm chứng qua cuộc sống hằng ngày nữa. Ðây chính là một phần trong điểm thứ hai ở trên mà chúng ta muốn lưu ý. Tức là muốn thẩm thấu Chánh pháp thì cần phải có thực nghiệm, thực nghiệm bằng quán chiếu hay thực nghiệm bằng thân chứng trong quá trình cuộc sống. Ðến đây, vấn đề này được đặt ra là nhà giáo dục giúp tuổi trẻ như thế nào để các em có thể tự mình triển khai trí tuệ giác ngộ? Ðiều vô cùng quan trọng cần nhấn mạnh ở đây trước tiên đó là trí tuệ thì không bao giờ bị đóng khung, bị trói buộc, bị thành kiến, bị định kiến. Bởi vì chỉ có một tâm thức, một kiến giải siêu việt lên trên tất cả mọi trói buộc và ở trạng thái bén nhạy, minh mẫn phi thường thì mới là trí tuệ giác ngộ, trí tuệ thể nhập vào tận nguồn cội của các pháp. Chính vì vậy, nhà giáo dục tuổi trẻ giúp con em không để chúng bị đóng khung, bị định kiến, bị thành kiến, bị trói buộc trong bất cứ quan điểm nào, hệ thống tư tưởng hay giáo dục nào. Giúp con em mở tâm và trí ra đối với tất cả mọi hiện tượng, mọi hoàn cảnh. Ðây chính là vai trò trọng đại và khó khăn nhất của nhà giáo dục, hơn nữa là nhà giáo dục Chánh pháp.
Thứ ba, chính vì giáo dục bằng Chánh pháp, cho nên, người đảm trách việc giáo dục tuổi trẻ phải là người hiểu biết thấu triệt và có kinh nghiệm thân chứng đối với Chánh pháp của chư Phật. Nhà giáo dục Chánh pháp cho tuổi trẻ nếu không có một số hiểu biết căn bản và những thực nghiệm đối với Chánh pháp thì không thể làm tròn được trọng trách là người hướng đạo, là vị thầy khai thị trí tuệ giác ngộ cho con em. Và như vậy thì nhà giáo dục Chánh pháp cho tuổi trẻ chỉ là người rao giảng chữ nghĩa một cách máy móc, không thể mang lại chất liệu Chánh pháp thật sự để nuôi dưỡng thanh thiếu nhi. Chính vì thế, chúng ta cần phải đào luyện thật kỹ không chỉ về mặt kiến giải mà còn về mặt tâm đắc đối với Chánh pháp cho những Huynh trưởng đảm nhận trách nhiệm là nhà giáo dục tuổi trẻ. Xin đừng quên rằng những Huynh trưởng làm phận sự giáo dục là những người đang thay thế vai trò hóa đạo của chư Phật, của quý Thầy để dạy dỗ, chuyển hóa các em, cho nên, phải đặc biệt và nghiêm túc quan tâm đến vai trò và khả năng của những Huynh trưởng làm giáo dục.
Thứ tư, nhà giáo dục tuổi trẻ bằng Chánh pháp cần phải cẩn trọng đối với phương pháp giáo dục cho từng lớp tuổi của các em. Chẳng hạn, phương pháp giáo dục và tâm lý hành xử của nhà giáo dục phải khác biệt và thích ứng với từng lớp tuổi của các em thuộc ngành oanh vũ, thiếu niên và thanh niên. Ở đây, nhà giáo dục, trước hết, cần phải được hướng dẫn về tâm lý giáo dục tuổi trẻ. Việc này có thể thực hiện bằng những lớp tu nghiệp tâm lý giáo dục, hoặc bằng những buổi hội thảo tổng quan về tâm lý giáo dục tại các đơn vị do những vị có thẩm quyền về lãnh vực tâm lý giáo dục phụ trách. Những Huynh trưởng làm công tác giáo dục tuổi trẻ cần phải hiểu tâm lý của các em theo từng giai kỳ phát triển của tâm-sinh lý để có thể không những giúp các em về mặt kiến thức Phật pháp mà còn về mặt phát triển toàn vẹn của một con người. Giáo dục trong nội dung Chánh pháp tức là mở bày trí tuệ giác ngộ cho tuổi trẻ. Ðiều này không có nghĩa là thả lỏng cho các em tự buông lung trong tâm thức vọng niệm của một chúng sinh, mà có nghĩa là nhà giáo dục đóng vai trò hướng dẫn, khai thị và trợ duyên cho tuổi trẻ phát triển khả năng của trí tuệ hướng đến đời sống sinh động, sáng tạo, tỉnh giác, có tu dưỡng, đạo đức và lý tưởng tự giác giác tha. Hình ảnh đức Phật dùng biểu tượng của một chậu nước trong sạch và chậu nước dơ sau khi đã rửa chân để khai thị cho tôn giả La Hầu La về bản chất ô trược không ích dụng của người buông lung ba nghiệp thao tác theo tham, sân, si và phẩm tính thanh tịnh hữu ích của một người tinh tấn tu tập Chánh pháp để thanh tịnh hóa ba nghiệp, là một bài học quý giá cho nhà giáo dục tuổi trẻ để từ đó suy nghiệm về những phương thức và tâm lý giáo dục nhằm đáp ứng được cá tính sai biệt của từng lớp tuổi của con em.
Thứ năm, là mối tương duyên tương quan không thể tách rời trong vai trò và trách nhiệm của tổ chức GÐPT, các Huynh trưởng làm giáo dục, tuổi trẻ, phụ huynh và quý Thầy và Sư cô cố vấn giáo hạnh. Những vị có trách nhiệm lo về bộ phận giáo dục trong tổ chức GÐPT cần phải quan tâm thường xuyên đến quá trình dạy dỗ con em, đến tính kiến hiệu của chương trình giáo dục đang thực hiện, đến khả năng và phẩm hạnh của những Huynh trưởng đang làm công tác giáo dục. Khi thấy có điều gì không ổn thì cần phải nghiên cứu giải pháp tức thì. Các Huynh trưởng làm phận sự giáo dục cũng phải có trách nhiệm quan tâm đến sự hữu hiệu và những ưu khuyết điểm của chương trình giáo dục của tổ chức đang thực hiện, cũng như tình trạng học tập của các em để kịp thời báo cáo lên ban giáo dục hầu đề xuất giải pháp thích ứng. Mối liên hệ chặt chẽ giữa tổ chức GÐPT và các phụ huynh cũng là yếu tố then chốt đưa đến thành tựu việc giáo dục con em. Những hồi ứng thích đáng của các phụ Huynh sẽ là những phản ảnh ích lợi cho công tác giáo dục mà tổ chức GÐPT cần đặc biệt quan tâm và tiếp nhận. Những đóng góp về mặt tinh thần và vật chất của khối phụ huynh để hỗ trợ cho công tác giáo dục là điều vô cùng cần thiết. Những khuyến khích và chăm sóc kỹ lưỡng đối với việc học tập của con em của các phụ huynh tại nhà là điều không thể thiếu được. Quý Thầy và Sư cô trú trì làm nhiệm vụ Cố vấn giáo hạnh cho GÐPT cũng đóng một vai trò trọng yếu để việc giáo dục tuổi trẻ được kết quả mỹ mãn. Quý Thầy và Sư cô cần phải quan tâm nhiều hơn nữa đối với việc giáo dục tuổi trẻ vì tương lai của Phật pháp. Chính vì vậy, các em cần được sự che chở, bảo bọc, thương yêu và thông cảm của quý Thầy và Sư cô cả về mặt tinh thần, vật chất lẫn cơ sở sinh hoạt. Quý Thầy và Sư cô không vì bất cứ một lý do gì mà ruồng bỏ các em, bởi chính vì các em chưa trưởng thành, chưa chín chắn cho nên mới càng cần đến sự dạy dỗ, nuôi dưỡng, nhất là đối với chất liệu của Chánh pháp.
Kính thưa quý anh chị em Gia Ðình Phật Tử,
Khi chúng ta nhìn về tương lai, dù là tương lai của xã hội hay tương lai của Phật pháp, thì tuổi trẻ vẫn là lực lượng then chốt, vẫn là niềm kỳ vọng mà chúng ta đều muốn đặt hết sự tin tưởng của mình vào. Nhưng tương lai ấy có tươi sáng huy hoàng hay không còn tùy thuộc vào những gì mà hôm nay chúng ta hun đúc và nuôi dưỡng nó. Chất liệu để nuôi dưỡng cho tương lai xán lạn không gì giá trị bằng giáo dục Chánh pháp. Chính vì vậy, xin mỗi người trong chúng ta hãy cẩn trọng quan tâm và nhiệt thành đóng góp sức mình cho công tác giáo dục tuổi trẻ bằng Chánh pháp. Trong lòng thành thiết tha ấy chúng tôi xin đặt niềm tin vào sứ mệnh giáo dục tuổi trẻ đối với tổ chức Gia Ðình Phật Tử Việt Nam, một tổ chức mà suốt trên sáu mươi năm qua đã không ngừng tận lực đóng góp sức mình cho sứ mệnh thiêng liêng và cao cả này.
Trân trọng cám ơn và kính chào quý anh chị em.
___________________________________________
Gieo hạt giống lành
Nguyên Thọ Trần Kiêm Ðoàn
Thêm một em oanh vũ
Gieo một hạt giống lành
Tươi mới đóa sen xanh
Nhú trên đài hoa cũ.
Thơ N.T
Từ nguồn gốc, Gia Đình Phật Tử Việt Nam (GĐPT) là một tổ chức giáo dục. Một hệ thống giáo dục đặt căn bản trên tinh thần Từ Bi, Trí Tuệ và Dũng Mãnh (Bi,Trí, Dũng) của đạo Phật. Trong lịch sử gần 60 năm, GĐPT là một biểu tượng linh động cho thế hệ trẻ trong các sinh hoạt chùa chiền tự viện. Đó là đội ngũ của những người tuổi trẻ Phật tử từ tuổi ấu thơ (ngành oanh) cho đến thanh thiếu niên (ngành thiếu). Dù ở trong bất cứ cấp độ nào, giáo dục vẫn là phương tiện nòng cốt để xây dựng và phát huy một tổ chức hay đoàn thể có kỷ cương.
I. Nhìn lại đường lối giáo dục truyền thống trong GĐPT.
Lần đầu tiên, lễ Phật đản năm Ất Hợi (10/05/1935) do Hội An Nam Phật học tổ chức rầm rộ tại Huế. Và đây cũng là lần đầu, tuổi trẻ chính thức được tham gia lễ Phật với một tư thế riêng chứ không phải chỉ là bóng mờ quen thuộc của các em bé lẽo đẽo theo bà ngoại đến chùa. Có tất cả 52 “em”, đồng phục tươm tất, đi theo hàng ngũ chỉnh tề trong đoàn rước Phật, mang hoa sen, vừa đi vừa hát theo điệu Đăng đàn cung với bài hát: “Vui mừng gặp ngày nay mồng 8 tháng tư. Ngày khánh tiết, Phật Thích Ca ngài, hiện về Ca Tỳ La Vệ…”. Hiện tượng tuổi trẻ giữa đời, sống đạo bằng con người thật đã cuốn hút sự quan tâm của thế hệ đàn anh. Một vấn đề mới mẻ bắt đầu thành hình: Tuổi trẻ với Phật giáo.
Ngày 10 – 08 – 1938, trong bài diễn văn khai mạc đại hội thường niên của hội An Nam Phật học, ông hội trưởng Lê Đình Thám đã xác định: “Không có một thành tựu vững bền nào mà lại không nhắm đến hàng ngũ thanh thiếu niên. Các em sẽ là những người tiếp nối chúng ta trong ngày mai…”. Hai năm sau, năm 1940, Đoàn Thanh niên Phật học Đức Dục (TNPHĐD) ra đời với sự bảo trợ của Hội An Nam Phật học và sự hướng dẫn trực tiếp của một Phật tử có uy tín hàng đầu về kiến thức Phật học uyên bác và tinh thần cải cách cấp tiến là bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám. Bước đầu, đoàn TNPHĐD quy tụ được một lực lượng nhân sự uy tín và hùng hậu với sự tham gia nhiệt tình của các anh: Phạm Hữu Bình (đoàn trưởng), Đinh Văn Nam (đoàn phó), Ngô Điền (thư ký), Võ Đình Cường, Ưng Hội, Tráng Thông, Đinh Văn Vinh, Ngô Thừa, Nguyễn Hữu Quán, Nguyễn Khải, Lê Kiểm, Phạm Quy, Hoàng Ngọc Phu, Lê Đình Duyên, Lâm Công Định…
Đoàn TNPHĐD đã nổi bật trong sinh hoạt Phật giáo đương thời vì “tuổi trẻ hành đạo” vừa là một hình ảnh tiền phong, vừa là một khái niệm rất tươi mới, sinh động, trẻ trung và cuốn hút trong sinh hoạt tôn giáo vốn từ lâu được xem là chỉ quy tụ toàn các bậc cao niên trưởng thượng. Đoàn đã thành lập cơ sở văn hóa Phật giáo cho tuổi trẻ đầu tiên tại nước ta với sự ra đời của Phật Học Tùng Thư. Các tác phẩm về tuổi trẻ và đạo Phật có giá trị được xuất bản như: Thanh Niên Đức Dục của Đinh Văn Nam, Phật Giáo và Thanh Thiếu Niên Đức Dục của Phạm Hữu Bình, Đời Vui của Ngô Thừa, Nghĩa Chữ Nho của Nguyễn Hữu Quán, Ánh Đạo Vàng của Võ Đình Cường… Song song với sinh hoạt văn hóa, các chương trình sinh hoạt tập thể năng nỗ và phong phú cũng được xây dựng như: Hoạt động thanh niên, giáo dục Phật pháp, Phật học thực hành…
Nhu cầu tổ chức, đoàn ngũ hóa mang tính giáo dục cho tuổi trẻ Phật tử trở thành một nhu cầu thời đại trong sinh hoạt Phật giáo Việt Nam. Lễ Phật đản năm 1944 tại đồi Quảng Tế – Huế, các đơn vị thanh niên Phật học, Hướng đạo Phật giáo, Đồng ấu Phật học… họp đại hội và khai sinh tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ. Đó là tiền thân của Gia Đình Phật Tử ngày nay. “Phật hóa phổ” nói một cách nôm na là đem đạo Phật đến với mọi người. Với tuổi trẻ là giáo dục Phật học cho thế hệ đàn em. Bốn Gia đình Phật Hóa Phổ đầu tiên được thành lập tại Huế là Gia đình Tâm Minh, Tâm Lạc, Thanh Tịnh và Sum Đoàn do các cư sĩ Lê Đình Thám, Phạm Quang Thiện, Tôn Thất Tùng, Nguyễn Hữu Tuân làm Phổ trưởng. Về mặt giáo dục Phật học, các huynh trưởng tiền phong là các nhà giáo, nhà văn có tinh thần và kiến thức Phật học vững vàng. Các anh đã phụ trách hai phần chính là: Soạn thảo tài liệu giáo khoa và huấn luyện giảng dạy. Về mặt hoạt động thanh niên, các huynh trưởng đầu tiên trong đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục phụ trách hướng dẫn sinh hoạt theo mô thức của Hướng Đạo Sinh thế giới. Hệ thống Gia Đình Phật Hóa Phổ càng ngày càng lớn mạnh theo đà phát triển của đạo Phật trong cả nước.
Gia Đình Phật Tử Việt Nam được chính thức thành lập. Đại hội Gia Đình Phật Hóa Phổ tổ chức tại Huế vào 3 ngày 24, 25 và 26 tháng 4 năm 1951 tại chùa Từ Đàm Huế với sự tham dự của đại biểu từ Bắc vào Nam gồm có: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Quảng Nam, Lâm Viên, Bình Thuận, Đồng Nai. Đại hội đã đồng thuận chọn một danh xưng thống nhất, do các huynh trưởng tiền phong là các anh Đinh Văn Nam, Ngô Thừa, Võ Đình Cường, Phạm Hữu Bình, Võ Hữu Quán đề nghị. Đó là tên gọi GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM chung cho Gia Đình Phật Hóa Phổ và các tổ chức thanh niên, hướng đạo, đồng ấu Phật tử… đang còn trong giai đoạn sơ khai.
Năm 1953, khi đại hội Gia Đình Phật Tử Việt Nam lần thứ hai được triệu tập tại Huế, với sự tham dự đông đảo và rộng khắp của các đại biểu 3 miền Trung, Nam, Bắc thì tổ chức GĐPT mới thật sự đi vào nề nếp ổn định, kiện toàn tổ chức. Đại hội đã soạn thảo chương trình tu học cho các ngành, các cấp, thống nhất hình thức, tổ chức, đồng phục, huy hiệu, phù hiệu…
Gia Đình Phật Tử Việt Nam từ đó tồn tại và phát triển theo lịch sử thăng trầm của đạo pháp và dân tộc. GĐPT về chiều sâu cũng như chiều rộng đã thật sự trở thành một “gia đình tâm linh” của tuổi trẻ Phật tử Việt Nam. Từ năm 1975 đến nay, một số các thành viên cũ và mới của GĐPT Việt Nam cũng có mặt trong những đợt người Việt đi ra nước ngoài. Sau một thời gian ngắn tan tác và chao đảo theo hoàn cảnh mới ở nước ngoài, các huynh trưởng và đoàn sinh GĐPT đã nhanh chóng tập hợp lại trong mỗi địa phương có sinh hoạt chùa chiền, tự viện, tăng ni và Phật tử. Những đơn vị GĐPT bắt đầu tái hình thành và phát triển bất cứ nơi đâu có quý tăng ni, Phật tử và chùa chiền ở khắp các nước trên thế giới.
Trong hoàn cảnh xã hội còn xa lạ ở nước ngoài với một địa bàn cư trú quá rộng rãi, bao la, trải dài từ Á sang Âu, tổ chức GĐPT Việt Nam phải đối diện với những thử thách mới chưa từng có trước đây.
Bên cạnh hoàn cảnh riêng, đạo Phật và GĐPT Việt Nam còn phải đương đầu với những thử thách chung. Đó là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và môi trường truyền thông đại chúng đã làm thay đổi môi trường sống cùng tri thức và tâm lý con người quá nhanh chóng.
Trong khoảng thời gian 30 năm qua, GĐPT Việt Nam đã có nhiều cố gắng vừa để hội nhập với điều kiện và hoàn cảnh mới; vừa nỗ lực vươn lên để khỏi bị lão hóa, lạc hậu, xa rời thực tế. Thế nhưng hạt giống bồ đề, tuy có đâm chồi nảy lộc, nhưng bóng mát hành đạo vẫn còn bị lay động qua nhiều gai góc. Tình trạng phân biệt, phân hóa, phân vùng, phân tổ chức… đã xảy ra và vẫn còn dậm chân tại chỗ. Trong những phương kế khả thi, ngỏ hầu giảm thiểu được thực trạng tiêu cực đang trở thành “chướng duyên” cho tuổi trẻ Phật tử trên đường tu học, giáo dục vẫn là nền tảng vững chắc để làm chỗ dựa cho thế hệ Phật tử đàn anh dùng để nuôi dưỡng và uốn nắn thế hệ đàn em.
II. Đặc tính tiêu biểu của một nền giáo dục theo tinh thần Phật giáo.
Tôn giáo nói chung là một hệ thống giáo dục khép kín hay mở rộng dựa trên một hệ thống lý thuyết hay triết lý nào đó đã trở thành đức tin và chỗ dựa tâm linh. Đó thường là lời dạy có giá trị thiêng liêng và đầy tôn kính nhất của một đấng chí tôn mà người theo tôn giáo đó tin tưởng và tôn thờ. Giáo dục đời thường mang ý nghĩa tri thức và thực dụng phục vụ cho đời sống hiện thực. Giáo dục tôn giáo mang ý nghĩa đức tin và hành đạo phục vụ cho đời sống tâm linh. Bởi vậy, vì yếu tính khác nhau nên phương tiện cũng khác nhau. Khác nhau giữa thế giáo và tôn giáo đã đành; nhưng ngay trong lĩnh vực thuần túy tôn giáo vẫn hoàn toàn khác nhau từ tôn giáo này đến tôn giáo khác. Thậm chí, có khi trái ngược nhau như nước với lửa; tùy theo cách nhìn về mối tương quan của con người với vũ trụ (vũ trụ quan), về cách nhìn thế giới (thế giới quan) và cách nhìn con người (nhân sinh quan). Hầu như mỗi tôn giáo đều có một đấng tiên tri thay mặt cho Thượng Đế tới cõi trần gian để làm các vị giáo chủ như: Đức chúa Jesus Christ (đạo Chúa), Abraham (đạo Do Thái), Muhammed (đạo Hồi), Vishnu (đạo Hindu, Ấn độ)… Chỉ có đạo Phật là tìm thể tính (be, essence, nature) của con người ngay trong sự hiện hữu của chính nó – duy ngã độc tôn – để xác định và giải quyết vấn đề hệ lụy nhân sinh và giải thoát giữa cuộc đời này. Bởi vậy, giáo dục trong Phật giáo không phải là một sự rao giảng mang tính tẩy não hay phải áp dụng những nguyên tắc lý thuyết đầy áp đặt mà đấy là một quá trình rèn luyện nhân cách từ u tối, mù mờ (vô minh, tà) đến chỗ sáng suốt, hiểu rõ (trí tuệ, chánh).
Giáo dục là một sự nghiệp có hai vế rõ ràng: Giáo (dạy dỗ) và dục (nuôi dưỡng). Với quan niệm thông thường thì hễ có người dạy, tất phải có kẻ học. Học để khỏi dốt (Dĩ học dũ ngu). Nhưng khái niệm “học” trong đạo Phật không hẳn là theo ý niệm thông thường ngoài đời. Truyền đạt không phải lúc nào cũng dùng tới lời nói; tiếp thu không phải lúc nào cũng qua trung gian dạy và học. Tăng đoàn thời Phật còn tại thế bao giờ cũng bao gồm hai đối tượng: Các bậc hữu học và các bậc vô học. “Hữu” và “vô” ở đây không mang ý nghĩa là “có” (tích cực) và “vô” (tiêu cực) trong khái niệm giáo dục đời thường. Các bậc vô học đã tu tiến và chứng ngộ không qua phương tiện giáo dục theo hình thức thông thường. Bởi thế, cái “học” cao nhất trong Phật giáo là sự quán niệm và chứng ngộ trực tiếp. Nhiều trường hợp vẫn là “không thầy riêng mày làm nên” (vô sư tự ngộ). Các bậc thánh tăng như Lục Tổ Huệ Năng, tuy mù chữ đời thường, nhưng tri thức giác ngộ cốt tủy của đạo Phật thì vô cùng uyên áo.
Thời cận đại, đạo Phật Việt Nam đã đầu tư vào giáo dục tuổi trẻ qua một hệ thống trường ốc tiêu chuẩn và các viện Phật học. Hệ thống trường Bồ Đề nhắm vào một nền giáo dục phổ thông và đại chúng. Các học viện Phật học ở Huế, Nha Trang, Đà Lạt, Sài gòn, Hà Nội… nhắm vào việc giáo dục các học tăng, học ni còn trẻ. Hệ thống trường tiểu và trung học Bồ Đề mở rộng khắp các tỉnh miền Nam thường được xem là tiêu biểu cho khuynh hướng giáo dục Phật giáo. Thật ra, trường Bồ Đề nổi lên như một thương hiệu giáo dục có ít nhiều liên quan đến sinh hoạt Phật giáo hơn là mang bản chất giáo dục Phật giáo. Tuy rằng, trường Bồ Đề có giảng dạy một số giờ giáo lý song song với giáo trình theo tiêu chuẩn phổ thông; nhưng mục tiêu rốt ráo của nhà trường vẫn là đào tạo học sinh thi đỗ, vào đời như tất cả các trường tư nhân và công lập khác. Hoặc cao hơn trong hệ thống giáo dục Phật giáo là viện đại học Vạn Hạnh, nơi quy tụ tăng ni danh tiếng và giới học giả hàng đầu của miền Nam một thời, thì vẫn còn nằm trong quỹ đạo của một nền giáo dục khoa bảng hơn là thoát xác thành một đại học Phật giáo chuyên ngành như tinh thần đại học Nalanda, một đại học Phật giáo quốc tế có quy mô đồ sộ đầu tiên được xây dựng từ thế kỷ thứ 5 (427) tại bắc Ấn Độ. Ngày nay, các đại học Phật giáo thế giới như đại học Quốc Tế ITBMU (Miến Điện), đại học Buryatia (Nga), đại học Maha – Chulalongkora (Thái Lan), đại học Chi – nan (Đài Loan), đại học Nagarjuna (Ấn Độ)… đều là những trường đại học chuyên về Phật học. Tín chỉ, chứng chỉ và bằng cấp của những trường này được hệ thống giáo dục quốc tế công nhận trong việc trao đổi sinh viên ngành Nhân chủng Xã hội (Humanities and Social Sciences) giữa các nước. Tại Việt Nam, từ năm 2007, đã có tin đặt đá xây dựng đại học Phật giáo Quảng Đức gần Sài gòn. Nhưng đến nay vẫn chưa nghe tin khánh thành và khai giảng.
Truyền thống và hệ thống giáo dục Phật giáo đại chúng và học viện vừa trình bày ở trên, không đóng một vai trò trực tiếp và thương xuyên đối với vấn đề giáo dục trong sinh hoạt của GĐPT Việt Nam 60 năm qua. Sinh hoạt của GĐPT hằng tuần có một hệ thống hàng dọc riêng từ Ban Hướng Dẫn trung ương đến từng đơn vị GĐPT chùa chiền, khuôn hội. Giáo hội và quý tăng ni đóng vai trò cố vấn tổ chức và cố vấn giáo hạnh. Lịch sử và kinh nghiệm thực tế đã chứng minh rằng, sức mạnh và tinh hoa của GĐPT Việt Nam chỉ phát huy rộng khắp, sinh động và hài hòa nhất từ thành thị đến nông thôn là khi chỉ có một ban hướng dẫn trung ương, một hệ thống tổ chức và một tiếng nói hòa hợp từ phía quý thầy, sư cô làm cố vấn giáo hạnh đến quý anh chị huynh trưởng và các cư sĩ thiện tri thức hỗ trợ. Không có chính trị đời thường xen vào lãnh đạo hay lãnh đạo xen vào chính trị.
III. Thử mạn đàm về một phương thức giáo dục thích hợp.
Không riêng gì tuổi trẻ trong tổ chức GĐPT Việt Nam mà tuổi trẻ cả nước và trên toàn thế giới nói chung, đang bước vào một thế giới mới của thế kỷ 21. Giềng mối và cấu trúc của gia đình, dòng họ, quý tộc, tên tuổi, danh thơm… của những thế kỷ trước đang bị lung lay hay thử thách trước một sự thay đổi chưa từng thấy do cuộc chạy đua tốc độ về những phát minh ngày một mới lạ trong nhiều lĩnh vực: Khoa học kỹ thuật, truyền thông đại chúng, giao thông vận tải, y tế xã hội, giáo dục đào tạo.
Trong bảng thang giá trị mới (new value system), tuổi trẻ thường xuyên đối diện và bị thách thức giữa hai cặp phạm trù mới/cũ khác nhau hay có khi trái ngược nhau. Riêng đoàn sinh GĐPT Việt Nam, không nhiều thì ít, vẫn đứng bâng khuâng giữa hai quan niệm sống như hai dòng nước cần phải chọn lựa vì nước đang trôi xuôi:
– Tâm linh hay vật chất
– Cá nhân hay tập thể
– Lý tưởng hay thực dụng
– Cảm tính hay lý tính
– Cầu nguyện hay hành động
– Vì ta hay vì người
– Chấp ngã hay phá ngã…
Những cặp nhị nguyên tốt/xấu đối đãi cứ như thế kéo dài. Tuổi trẻ hoang mang buông thả hay nắm bắt một khái niệm giá trị vừa thích hợp, vừa đúng đắn không phải là điều đơn giản. Dưới sức ép xảy đến chớp nhoáng tưởng chừng như tự nhiên từ phía xã hội, gia đình, tâm lý… khiến tuổi trẻ chỉ còn biết phản ứng. Nhưng biết dựa vào đâu để có phản ứng thích hợp, khỏi bị lạc đường và giảm thiểu tai họa va chạm giữa cuộc đời muôn mặt này? Câu trả lời là: Giáo dục. Giáo dục phải được quan niệm và sử dụng như một ngọn đèn định hướng, giúp tuổi trẻ có một phương tiện tương đối an toàn trên đường dò dẫm tiến bước vào tương lai.
Vai trò giáo dục trong GĐPT không nhằm thay thế cho chương trình giáo dục phổ thông ngoài đời. Vì vậy, mục đích, nguyên tắc và phương thức giáo dục cần phải được soạn thảo, truyền đạt, ứng dụng linh động và thích hợp theo đối tượng và hoàn cảnh cụ thể:
1. Mục đích giáo dục:
Mục tiêu giáo dục trong GĐPT là nhằm đào tạo thế hệ trẻ thành những người công dân tốt của đất nước mình đang ở và những Phật tử chân chính. Giáo dục là quá trình xây dựng thế hệ trẻ về cả 4 mặt: Khởi lòng từ bi, trau dồi trí tuệ, luyện ý chí dũng mãnh và giữ được tinh thần khiêm tốn nhẫn nhục.
Hình ảnh người Phật tử chân chính của thế hệ này là một người đơn giản, hiểu biết, có tấm lòng nhân hậu và tư cách ngay thẳng. Đó là người có cuộc sống ổn định, có nghề nghiệp lương thiện để sinh tồn; có kiến thức Phật học cơ bản để suy nghĩ và thực hành trong đời sống; có tinh thần cầu tiến bộ và hiểu rõ chính mình để tinh tấn; biết mình là ai trong mối tương quan giữa cá nhân, gia đình, dân tộc và đạo pháp để hòa điệu sống.
Mục đích giáo dục trong sinh hoạt GĐPT không chủ yếu nhắm vào sự thành công theo quy ước đời thường như học vị, thăng chức, xếp loại, so sánh… mà cơ bản là hướng về sự thành nhân. Một bác sĩ lành nghề, có đông khách là ví dụ điển hình về sự thành công của việc học hành ngoài đời. Một cư sĩ đức hạnh, giúp được nhiều người tu học; một đoàn sinh GĐPT gương mẫu về nhiều mặt là ví dụ điển hình về sự thành nhân của việc học hành trong đạo. Phân định rõ ràng giữa mục đích đào tạo thành công và thành nhân sẽ giúp người soạn thảo chương trình và sách giáo khoa, cũng như giúp người giảng dạy chủ động chọn lựa nội dung và đường lối thích hợp.
Xa hơn thế nữa, xác định được rõ ràng mục đích của giáo dục trong sinh hoạt GĐPT để thấy rõ vấn đề nhằm chấm dứt (hay ít nhất là giảm thiểu) các hoạt động giáo dục dính mắc vào tính chất vụ hình thức, cổ xúy sự cạnh tranh ích kỷ và cục bộ. Sự cạnh tranh hình thức này thường là nguyên nhân chính của sự phân hóa, chia rẽ giữa các đơn vị GĐPT sinh hoạt gần nhau.
2. Nguyên tắc giáo dục:
Mỗi lĩnh vực giáo dục chuyên môn đều có nguyên tắc thích ứng riêng cho lĩnh vực đó. Giáo dục trong GĐPT Việt Nam dựa trên những nguyên tắc lý thuyết cơ bản của đạo Phật. Bi, Trí, Dũng là nguyên tắc hành xử của GĐPT. Tuy nhiên, qua quá trình giảng dạy, học tập và thực hành, tinh thần Bi, Trí, Dũng thường được hiểu một cách máy móc và diễn dịch giới hạn nên chưa phát huy được tác dụng trong nhiều hoàn cảnh và thời đại mới như hiện nay.
Cần minh định lại nội dung Bi, Trí, Dũng áp dụng cho GĐPT.
Bi: Là Từ Bi. Lòng từ bi là tình thương không phân biệt của đạo Phật. Người có lòng từ bi lấy đôi mắt thương yêu nhìn cuộc đời. Tình thương xuất phát từ lòng từ bi không phải là một sự ban phát tình cảm thương hại của một người đứng trên tư thế cao hơn hay hạnh phúc hơn nhìn xuống kẻ bất hạnh bên dưới. Từ bi là một sự cảm thông và chia sẻ bình đẳng, nhìn người được giúp với lòng trân trọng như nhìn một vị Phật tương lai. Tuổi trẻ trang bị lòng từ bi sống đơn giản và chân thành với chính mình và với người khác. Đi xa hơn trong quan hệ sinh hoạt tập thể, tuổi trẻ có lòng từ bi không phân biệt ta với người, đơn vị mình với đơn vị bạn. Do đó, luôn luôn có sẵn một tinh thần hiếu hòa và hóa giải; không chê của người, không khen của ta. Sự thống nhất GĐPT không bắt nguồn từ hình tướng phía này hay phía khác mà phải có cội nguồn từ lòng từ bi. Càng phân biệt, chỉ trích, phê phán nhau thì càng xa nhau và đào sâu thêm sự phân hóa. Càng tạo ra sự kỳ thị, đương đầu, thách thức thì lòng từ bi càng nghèo nàn và vắng bóng. Bởi vậy, trong giáo dục GĐPT, nguyên tắc Từ Bi là nguyên tắc cơ bản của tâm hồn
cần phải được nhắc nhở và thực hành thường xuyên trong mọi hình thức suy nghĩ, cư xử và sinh hoạt.
Trí: Là Trí Tuệ. Trí Tuệ sáng suốt không giới hạn của đạo Phật.
Nhà Phật phân biệt hai loại trí tuệ: Trí hữu sư và trì vô sư . Trí tuệ hữu sư có được do kiến thức tích lũy qua quá trình nghe, suy tư và tu theo lời dạy của bậc làm thầy hay thiện hữu tri thức (Văn – Tư – Tu). Trí vô sư là trí tuệ tự mình phát khởi do chính mình cố công nghiêm trì giới luật và giữa tâm an định (Giới – Định – Huệ).
Trí tuệ tuổi trẻ trong GĐPT cần cả hai để có được cái nhìn bao quát và sâu sắc; sẵn sàng mở rộng tầm nhìn để đón nhận và học hỏi cái mới. Tuy nhiên, nếu cứ khư khư bảo thủ cái cũ hay nhắm mắt chạy hùa theo cái mới là hai trường hợp cực đoan của sự thiếu vắng trí tuệ. Trong một xã hội mà bộ mặt “văn hóa thế giới” đang thay đổi nhanh chóng từng giây, từng phút về khoa học kỹ thuật, về phương tiện truyền thông và giao lưu như hiện nay, tuổi trẻ cần phải được giáo dục về trí tuệ giải thoát của đạo Phật. Đạo Phật lấy trí tuệ giải thoát làm căn bản. Tất cả đều là phương tiện để đạt mục đích cuối cùng là sự an lạc trong cuộc sống và lý tưởng giải thoát. Tuổi trẻ thường xuyên bị dính mắc với phương tiện mà quên cứu cánh như ngồi trên chiếc xe êm dịu mà không biết về đâu hay ngồi suốt ngày trên máy vi tính chỉ để vui chơi như người ham mê cờ bạc là có phương tiện tốt mà không có mục đích, lý tưởng giải thoát rõ ràng.
Dũng: Là Dũng Mãnh. Dũng Mãnh là tinh thần vô uý (không sợ hãi), vượt thắng những chướng ngại, khai quang con đường phải đi và vững vàng tiến tới. Đó là sự tinh tấn của người Phật tử. Dũng mãnh không đồng nghĩa với thái độ xốc nổi mù quáng, lăn xả vào mọi sự hiểm nguy không đúng lúc, chỉ biết tiến tới mà không biết lùi. Đương đầu với bạo lực vô minh hay xông pha vào hang hổ đói không phải là dũng mãnh mà là vọng động cuồng điên. Giáo dục thế hệ trẻ về tinh thần dũng mãnh là phải biết tiến tới hay thoái lui đúng lúc. Tinh thần dũng mãnh của đạo Phật thể hiện bằng sự quán sát kỹ càng, hành xử quyết đoán đúng lúc; làm điều phải không sợ hãi; can đảm chấp nhận cái sai đề sửa đổi (sám hối); không để sự bất tịnh, sai trái, mê hoặc của lòng tham dục và tà kiến của ma vương lôi kéo quật ngã.
Xin thêm một đề nghị:
Trong 3 nguyên tắc giáo dục của tinh thần Bi, Trí, Dũng có một sự mặc nhận (hiểu ngầm) không có lợi cho vấn đề giáo dục tuổi trẻ, đó là nguyên tắc thứ 4: Khiêm. Khiêm Nhẫn là khiêm tốn và nhẫn nhục mà các bậc thức giả thường cho rằng, tính khiêm nhẫn được “mặc nhiên gói ghém” trong Bi, Trí, Dũng vì một khi đã có tình thương, trí tuệ, dũng mãnh thì sự khiêm tốn và nhẫn nhục tự động xuất hiện. Trên thực tế, sự suy diễn này đi quá xa ngoài tầm tay với của tuổi trẻ. Với tuổi trẻ, những nguyên tắc nào hợp với khế cơ hay khế lý cần phải được ghi nhận và minh định rõ ràng. Vì vậy, trên nguyên tắc giáo dục GĐPT, xin được đề nghị là: Bi, Trí, Dũng, Khiêm. Trong vài ba thập niên gần đây, hiện tượng người Phật tử Việt Nam, nhất là tuổi trẻ Phật tử đã có những biểu hiện sa sút về đức khiêm tốn và nhẫn nại. Đó là sự phân hóa giữa các đơn vị GĐPT. Thế hệ đàn anh có khuynh hướng cường điệu và quá chấp chặt với quá khứ. Thế hệ đàn em phản kháng quay lưng để nhìn về hiện tại và tương lai. Thái độ khiêm nhẫn trong nội bộ đã khó; sự khiêm nhẫn trong quan hệ bên ngoài có vẻ còn khó hơn. Phát huy đức tính khiêm nhẫn tức là trực tiếp tạo ra sự tôn trọng hai chiều, biết chịu khó lắng nghe, cẩn trọng trong việc ra chỉ thị, quyết định gây chia rẽ không cần thiết. Áp dụng thêm nguyên tắc khiêm nhẫn trong giáo dục là góp phần tích cực hàn gắn và hóa giải sự phân hóa đang làm đau lòng mọi Phật tử có đạo tâm trong hoàn cảnh hiện nay,
3. Phương thức giáo dục:
Mỗi phương thức giáo dục đều có một tác dụng với từng đối tượng đặc biệt. Phần sau đây, thử góp ý, phân tích và chia sẻ những nét tiêu biểu về một đường hướng giáo dục tương đối thích hợp và cần thiết nhất là có thể áp dụng được (khả thi) cho tuổi trẻ và gia đình Phật tử Việt Nam trong hoàn cảnh cụ thể trước mắt.
Giáo dục truyền thống trong đạo Phật có rất nhiều hình thái khác nhau tùy theo hoàn cảnh, trình độ và căn cơ của người theo học (pháp dùng phương tiện). Tuy nhiên, các hình thức thông thường nhất là:
– Trí giáo hay ý giáo: Dạy dỗ và truyền đạt bằng kiến thức trong sách vở và kinh nghiệm thực tiễn trong đời sống.
– Ngôn giáo hay khẩu giáo: Dạy dỗ và truyền đạt bằng lời giảng giải, thuyết phục; khuyên bảo trực tiếp bằng lời nói.
– Đức giáo: Dạy dỗ và truyền đạt bằng chính tấm gương trong sáng về cuộc sống đạo đức và hạnh lành của bậc làm thầy.
– Thân giáo: Dạy dỗ và truyền đạt bằng hành động bản thân của người thầy có đầy đủ các biểu tượng của từ bi, trí tuệ, dũng mãnh và khiêm nhẫn.
Thân giáo là một phương thức giáo dục quan trọng nhất trong các phương thức giáo dục Phật giáo.
Thân giáo có hai mức độ: Tự thân giáo và thọ thân giáo.
Tự thân giáo là chính bản thân mình tự trau dồi kiến thức, nhân cách, quán niệm, điều tâm, tu dưỡng để chuyển hóa thân tâm theo đường chánh đạo. Người tự thân giáo nương cậy chính vào tự lực, phát huy sức mạnh nội tại của chính mình. Tự thân giáo đòi hỏi người thực hành có một năng lực tập trung và tinh thần tự giác cao độ.
Thọ thân giáo là thu thập và học hỏi qua nhân cách, đạo hạnh, uy vệ của người thuyết giảng. Trong GĐPT, hình ảnh của thầy cô cố vấn giáo hạnh, của bác gia trưởng, của quý anh chị trong ban Huynh trưởng đóng một vai trò thân giáo rất quan trọng trong việc giáo dục các em. Người giảng dạy dẫu có kiến thức phong phú, lời nói hay ho đến mức nào mà phong cách không trang nghiêm, tên tuổi không trong sáng, lời nói không đi đôi với việc làm thì làm sao có đủ sức chứng minh, thuyết phục và và chuyển đổi được đối tượng nghe giảng. Trong giáo dục, thân giáo được xem là chuẩn mực, là quy phạm để người giảng dạy tự suy xét chính mình. Một anh chị huynh trưởng GĐPT mang tai tiếng thì làm sao cầm còi, hướng dẫn các em đoàn sinh là điều hay lẽ phải. Kẻ nói năng thiếu xác tín, lên tiếng khuyên đàn em phải làm điều lành, tránh điều dữ trong lúc bản thân mình là đối tượng phạm pháp, mang tai tiếng tranh quyền đoạt vị, mất uy tín với gia đình và xã hội thì thật là điều mỉa mai và phản tác dụng với thế hệ đàn em. Nếu thân không nghiêm, hành động thiếu quang minh chính đại thì mọi lời nói và việc làm đều không có giá trị đạo đức và giáo dục. Đức Phật đã dạy trong kinh Pháp Cú rằng:
Trước nhất tự luyện mình
Đạo hạnh thành chân chính
Sau mới giáo hóa người
Thân trí đồng tương kính
Sống là học tập. Giáo dục xuất hiện dưới nhiều dạng thức. Giáo dục trong GĐPT là một quá trình tổng hợp của chư tăng ni, đại chúng Phật tử, gia đình đoàn sinh và GĐPT. Nguyên tắc phương thức giáo dục nào cũng đều có thế mạnh và thế yếu. Nhưng trên tất cả vẫn là thế đứng và sự kế thừa của thế hệ trẻ trong lòng đạo pháp và dân tộc trong khi thế hệ già đang từ từ vắng bóng theo luật tự nhiên.
Đề nghị một sự chấn chỉnh cấp thời.
Trước khi GĐPT chính thức ra đời, trước năm 1945, đạo Phật tại Việt Nam là một tôn giáo của các bậc cao niên, trưởng thượng. Phật giáo dần dần bị lão hóa. Chùa chiền là việc của chư tôn đức và của các ông già bà lão!
GĐPT Việt Nam đã làm cho đạo Phật Việt Nam sinh động với một hình ảnh mới: Tuổi trẻ hành đạo. Tuổi trẻ đã cùng với tuổi cao niên đi chùa, lễ bái, làm Phật sự, tu học.
Tuy nhiên, trong khung cảnh chùa chiền, tự viện tôn nghiêm cộng với truyền thống văn hóa gia trưởng phụ quyền lâu đời, tuổi trẻ Phật tử chưa phát huy được thế chủ động cần thiết của mình. Tình trạng “thầy đâu trò đó” đã làm cho tuổi trẻ Phật tử không vươn lên khỏi vai trò chỉ để “trang hoàng” và phụ thuộc trong các sinh hoạt chùa chiền. Thực trạng càng xót xa hơn khi tuổi trẻ Phật tử tươi mát và hồn nhiên bị thế hệ đàn anh lợi dụng. Trong những năm qua, không ít đơn vị GĐPT đã bị giới đàn anh cầm đầu lèo lái và sử dụng vào những hoạt động phi Phật giáo như chính trị, kinh tế, xã hội.
Nếu đi sâu vào chuyên môn, không ai có thể chối bỏ được sự thật rằng, hoàn cảnh đã đổi thay, tri thức tuổi trẻ hiện đại cùng lứa tuổi đã tăng lên nhiều lần so với tuổi trẻ thời tiền chiến (1930 – 1945). Tâm lý tuổi trẻ của thời kỳ kinh tế thị trường và văn hóa thế giới cũng đã chuyển đổi mãnh liệt: Độc lập, mạnh dạn, tích cực và chủ động hơn xưa. Thế nhưng, trong sinh hoạt nội bộ của GĐPT, những nguyên tắc và lề lối sinh hoạt “truyền thống” không thay đổi kịp với tốc độ thực tế. Lề lối sinh hoạt có nơi, có chỗ đã quá lỗi thời, không còn thích hợp cho nhu cầu tri thức và tâm lý thực tế của tuổi trẻ Phật tử muốn tinh tấn tu học.
Xin đơn cử một số vấn đề tồn tại tiêu biểu:
– Về Phật pháp: Chương trình Phật pháp được các bậc huynh trưởng tiền phong soạn thảo hơn 50 năm qua mang đậm tính quốc văn giáo khoa thư và ứng dụng phương pháp truyền thụ kiến thức thụ động một chiều vẫn không có gì thay đổi, cập nhật.
– Về kinh sách: Chỉ nói đến những nghi thức tụng niệm đơn giản dùng hằng ngày mà thôi thì cũng đã thiếu sự thống nhất giữa các chùa và các đơn vị. Văn cổ học chữ Hán tối tăm khó hiểu xen lẫn với văn thuần Việt dịch nghĩa chưa được hoàn thiện trong các kinh sách hiện dùng là một vấn đề thiếu sót và cản trở nghiêm trọng trong việc tu học. Thực tế là các bậc phụ huynh còn chưa hiểu nổi thì làm sao tuổi trẻ – nhất là khi các em ở nước ngoài, nói tiếng nước ngoài – lại có đủ sức để hiểu, để yêu mến và ham thích học Phật cho được.
– Về hoạt động thanh niên: Nội dung lễ nhạc, các bài hát tập thể, các trò chơi sinh hoạt, các môn sinh hoạt ngoài trời… vẫn chỉ mới ở mức độ tạm “sống còn”, chưa tạo ra được sự sinh động và cuốn hút cho tuổi trẻ. Trong lúc đó, thế giới “games” muôn màu muôn vẻ, điện thoại di động, vi tính truyền thông… đã lôi kéo nhiều tâm hồn tuổi trẻ một thời gắn bó với GĐPT ra khỏi quỹ đạo của chùa chiền.
– Về mặt lãnh đạo và chỉ đạo: Hiện trạng có tới 3 (hay nhiều hơn?) Ban Hướng dẫn GĐPT Trung Ương GĐPT tại Hoa Kỳ đã làm cho nhiều người, kể cả chư tôn đức, các nhân vật trong GĐPT, trong các đạo tràng và quần chúng… ngạc nhiên và hoang mang. Biểu hiện thông thường là giới đàn anh ở tư thế lãnh đạo không hòa hợp được với nhau, không giải quyết được những mâu thuẫn, xung đột, khác biệt nên “chia tay” và kéo theo đàn em chia GĐPT thành nhưng đơn vị ly khai nhau theo vùng, theo khuynh hướng… Sự phân hóa này đã làm cho hệ thống GĐPT Việt Nam Hải ngoại chững lại và khó có thể phát huy được vai trò tích cực để mong làm chiếc cầu kế thừa cho hai thế hệ Phật tử, già đang qua; và trẻ đang đến, trong dòng chảy của Phật giáo Việt Nam tại Hải ngoại có sự tương tác cần thiết.
Muốn xây dựng một chương trình giáo dục GĐPT lành mạnh, có hiệu quả, cần phải vận động một cuộc chấn chỉnh nội bộ GĐPT Việt Nam Hải ngoại càng sớm càng tốt. Nếu chưa có được một giải pháp hóa giải cấp thời ổn thỏa và êm đẹp giữa các thành viên có trách nhiệm đang ở vai trò lãnh đạo và chỉ đạo, tại sao chúng ta không tạm dùng phương thức “đa lưu chi” (nhiều nguồn nhánh) theo mô thức dân chủ pháp trị đa nguyên của Mỹ. Nghĩa là các đơn vị GĐPT vẫn giữ nguyên vị trí của mình như hiện nay, nhưng đại biểu của đơn vị có thể ngồi lại với nhau – như các đảng Dân Chủ, Cộng Hòa và Độc Lập Mỹ – để hoạch định một đường lối giáo dục chung, thích nghi cho GĐPT, tiến tới một khả năng chấn chỉnh toàn diện và tốt đẹp phục vụ cho con đường giáo dục và tu học của thế hệ Phật tử đàn em nói chung.
Một hình thức “Liên Hiệp Ban Hướng Dẫn GĐPT Trung Ương… ” trong lúc cấp thời này là một khả năng tích cực có thể thực hiện được tương đối công bằng và hợp lý.
Ba mươi năm qua, Phật giáo và GĐPT Việt Nam tại hải ngoại vẫn chưa qua khỏi giai đoạn “chuẩn bị” trong việc xây dựng cơ sở vật chất và nề nếp sinh hoạt nên tác dụng hoằng dương Phật Pháp chưa thâm nhập được vào xã hội phương Tây như Phật giáo Tây Tạng, Đài Loan, Tích Lan, Nhật Bản.
Thế hệ huynh trưởng GĐPT có tâm huyết và kinh nghiệm nay đều đã ngoài 60. Các anh chị không còn nhiều thời gian để đắn đo và chờ đợi một giải pháp “đèn thần” nào đó đến từ bên ngoài. Sự nghiệp lớn nhất của người huynh trưởng GĐPT là sự truyền thừa một giá trị cụ thể nào đó cho các em. Chúng ta chỉ còn lại một tấm lòng và một sự hy sinh cần thiết để cởi bỏ những định kiến, mặc cảm, hiểu lầm hay chưa hiểu hết… để ngồi lại với nhau.
V. Kết luận.
Tiêu đề cho khóa hội thảo huynh trưởng Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại Hoa Kỳ năm 2009 là GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ. Giáo dục là một vấn đề truyền thống ngỡ như quá quen thuộc và xưa cũ; nhưng thật ra, cứ mỗi hình thái xã hội, văn hóa, thời đại nào thì có một nền giáo dục tương ứng cho hoàn cảnh đó.
Sau gần 60 năm hoạt động, GĐPTVN đang đứng trước nhiều vấn đề và nhiều thử thách mới. Nhưng 3 vấn đề nổi bật, đòi hỏi giải pháp thức thời và khả thi là:
– Tình trạng phân hóa nội bộ.
– Sự khác biệt về văn hóa, xã hội, ngôn ngữ giữa hai hoàn cảnh quê nhà và quê người; cũng như giữa hai thế già và trẻ tạo ra nhiều khó khăn, trở ngại.
– Khuynh hướng chính trị và xã hội dị biệt đưa đến cách nhìn và cách hành xử khác nhau.
– Thế hệ huynh trưởng đàn anh thiếu chuẩn bị để trao truyền sự kế thừa cho thế hệ đàn em.
Vai trò giáo dục thuần túy không phải là chiếc đũa thần để giải quyết những vấn đề khó khăn vừa nêu trên đây. Tuy nhiên, mọi sự thay đổi lâu dài và cơ bản của một hệ thống tổ chức đoàn thể lớn như GĐPT phải bắt đầu từ giáo dục. Giáo dục đóng vai trò gieo ý thức để chuyển hóa hành động.
Lịch sử sinh hoạt tập thể có những quy luật đào thải riêng của nó. GĐPT tất nhiên không phải là một ngoại lệ. Phương châm hành động của đạo Phật là “tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Nếu chịu khó quan sát thật kỹ và tìm hiểu với thế hệ trẻ đoàn sinh GĐPT tại Hoa Kỳ thì hơn 80 phần trăm ngôn ngữ các em dùng với nhau là tiếng Anh. Văn hóa Mỹ đậm nét trong suy nghĩ và tâm hồn các em hơn là Việt. Thành phần huynh trưởng trẻ và năng nỗ nhất thì phải hết sức vất vả mới giữ cho mình ở tư thế song ngữ (bilingual) và song văn hóa (bicultural) Việt Mỹ. Thành phần huynh trưởng lớn tuổi ngày một hiếm chỉ còn đứng trong vai trò cố vấn và chỉ đạo. Thế nhưng, trên “mặt trận” quyền lực thì chính những vị cao niên này lại dày công vận động năng nỗ và sử dụng nhiều đòn phép bất tịnh nhất. Tại sao hiện tượng nghịch lý này lại tồn tại trong hệ thống GĐPT Việt Nam?
Vì tương lai của thế hệ đàn em, với trí tuệ tam bảo, cầu mong định lực của chư tôn đức và thiện tâm của chư vị có trách nhiệm đưa GĐPT vượt qua những trở ngại nhất thời. Cấp thời trước mắt là xin quý huynh trưởng lãnh đạo, cố gắng bắt tay nhau chấn chỉnh GĐPT, soạn thảo một chương trình giáo dục cho GĐPT trước khi quá muộn màng, buộc phải buông tay trước quy luật đào thải tự nhiên không ai tránh khỏi.
___________________________________________
Phật giáo với tuổi trẻ
Nguyên Bảo
Cho dù là thành viên của một đoàn thể giáo dục thanh thiếu niên Phật giáo – Gia đình Phật tử Việt nam tại Hoa kỳ – có cơ duyên thường xuyên tiếp cận với giáo lý Phật Đà, gần gũi Chư Tăng Ni, chùa tự, sinh hoạt với mọi lứa tuổi từ đồng ấu, thanh thiếu niên, thiếu nữ, kể cả những anh chị cao niên mà lòng nhiệt huyết và sức hoạt động còn rất “trẻ”, chúng tôi vẫn thấy mình chưa mấy hiểu rõ Phật giáo và Tuổi trẻ. Phật giáo vẫn là những đỉnh Thái sơn chót vót, bạt ngàn, thâm viễn, học một đời vẫn không thấm gì. Tuổi trẻ vẫn cứ là lớp người quá năng động, nhiều khát vọng, thật phức tạp, đa diện…
Trong khuôn khổ của bài viết mang chủ đề “Đạo Phật với tuổi trẻ”, chúng tôi chỉ xin mạo muội nêu lên những gì mà mình đã cảm nhận về những điều mà lớp người Phật tử trẻ thao thức nhất, và họ rất mong được chỉ dạy. Nhìn chung, người Phật tử trẻ sống giữa Đời thường và đến với Đạo thường hay tự vấn:
- Làm sao để chọn và tu học một Đạo Phật đích thực?
- Làm sao ứng dụng hữu hiệu Đạo Phật trong cuộc sống hàng ngày?
1. Làm sao để chọn và tu học một Đạo Phật đích thực?
Hầu hết người trẻ đến với Đạo bằng con đường học hỏi trước khi tu tập, bằng kiến văn, lý thuyết nhiều hơn thực hành, chuyên trì. Để nhận chân một Đạo Phật đích thực, họ phải đối diện những giải lý sai khác: Đạo Phật là một tôn giáo, một khoa học, một triết lý, một hệ thống đạo đức học, một tổng hợp giáo dục nhân sinh, một ngành tâm lý học, một khoa học trị liệu pháp cho tâm thân, v.v… Hay Đạo Phật là toàn bộ những định danh, định nghĩa đó?
Khi nhìn quanh, họ thấy Phật giáo diễn bày dưới nhiều sắc thái tông hệ phái đặc thù riêng, hình thức thờ tự, lối hành đạo, giảng đạo dị biệt, nhiều chủ điểm giáo lý được luận khác nhau. Họ lại thấy những bậc cha anh với lòng mộ đạo và tín tâm sâu sắc mà gần trọn đời vẫn vật vã “dùi mài” kinh văn, lại liên tục tham học hết Chư Tăng này đến Tôn Sư khác mà vẫn chưa tìm ra chân lý để mà bằng lòng, an tại.
Ngày nay, đông đảo người trẻ may mắn sống trong gia đình có ông bà, cha mẹ theo truyền thống Phật giáo đầy tín tâm, họ được phụ huynh hướng dẫn đến chùa, theo sát các khóa giảng Pháp, tập Thiền có trình tự, có căn bản do Quý Chư Tăng Ni nghiêm túc giáo dưỡng, chắc chắn là những người trẻ này bớt nghi nan, lạc nẻo giữa hiện cảnh Đạo Phật trăm hoa đua nở ở xứ người. Cũng ngày nay, đông đảo người trẻ đến sinh hoạt liên tục năm tháng với tổ chức Gia đình Phật tử, họ may mắn được học giáo lý có trình tự, có phân cấp và có thực hành các chủ điểm giáo lý qua thân giáo, qua cung cách sinh hoạt tập thể. Những thành viên Áo Lam đã có bản đồ học Phật như thế chắc cũng đỡ lung trạo, tứ tầm lung tung trước bối cảnh Đạo Phật thiên biến vạn hóa ở xứ người.
Những người Phật tử trẻ mà chúng tôi vừa mô tả là may mắn đó đã tìm hạnh phúc gì cho mình cho người giữa cái xã hội tiên tiến, kỹ thuật cao đẳng, phương tiện vật chất dư thừa nhưng cũng dư thừa bạo lực, tội ác, uất cảm? Cố nhiên nhiều người trong số họ đã học được những bài học bổ ích để có được sự an tâm, tỉnh trí; hàn gắn được những xung đột tình yêu, gia đình, bè bạn; sáng suốt, khiêm tốn, xả thân hơn với tha nhân; bình tỉnh hơn trước những huống trạng của đời sống,… Những người Phật tử trẻ đó đã biết tận dụng những khoảng thời gian rảnh sau giờ nghỉ sở, ngày cuối tuần, lúc nghỉ lễ, nghỉ hè cho những lợi ích bản thân, và cho người khác trong việc tu học và bồi dưỡng giáo pháp. Nhưng, nói như thế không có nghĩa những người trẻ đó đã thật sự mãn nguyện 100% trong việc tầm đạo và cầu học.
Trong hoàn cảnh và môi trường tưởng chừng may mắn, không phải lớp người trẻ kia đã ngưng những xôn xao ba động trong tâm thức học Phật, khi mà họ là lớp người thuộc thế hệ thứ III, thứ IV trong làn sóng người Việt Nam tị nạn. Nói – nghe – đọc và hiểu tiếng mẹ đẻ của họ đã dần quên bớt hay càng ngày càng xa lạ, trong khi đó đa phần các chùa tự, chư tăng, đoàn hội Phật giáo trong cộng đồng Việt Nam vẫn hoằng dương, giảng pháp bằng Việt ngữ. Những giảng khóa bằng Anh, Pháp ngữ nếu có, vẫn chưa được tổ chức sâu rộng, phổ biến, không được thường xuyên, xa khu vực cộng đồng, chi phí phải đóng có phần khó khăn cho giới trẻ,… khiến chuyện tu học giảm bớt sức thu hút người trẻ. Phải chăng vì những lý do này mà đã có nhiều bậc phụ huynh Việt Nam đã quy y, hay học Đạo với các Tăng, Sư truyền giáo bằng Anh, Pháp ngữ của các cộng đồng khác (như Trung Hoa, Nhật, Tây Tạng,…) chỉ để con em của họ có thể cùng theo tu học. Cũng có rất nhiều người trẻ tâm sự rằng nghe – đọc – hiểu tiếng Việt bình thường, thông dụng đã khó huống gì nghe giảng hay đọc sách phật đầy rẫy tiếng Hán, lại nhiều khi ghi thêm Pali, Phạn ngữ, dễ làm họ chán ngán. Đa số những người trẻ còn đọc làu được tiếng Việt, thú nhận rằng khi đọc những sách mới đây của các chư Tăng, luận sư thời đại dùng ánh sáng Đạo Phật để soi rọi những vấn đề thiết cận thường ngày như: sân hận, bạo lực, căng thẳng tinh thần, tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc, an lạc, quan niệm sống và chết,… vẫn thấy dễ hiểu, dễ cảm thụ hơn là những kinh sách, luận giải chi li của lớp tăng nhân, luận sư uyên bác, cách đây 15, 20 năm viết theo lối kinh viện.
Lớp Phật Tử trẻ Việt Nam hải ngoại hằng ao ước việc hoằng pháp và giáo dục Phật Đạo cho họ cần sớm canh tân, có nội dung, chương trình hấp dẫn, thích hợp, giúp họ san bằng được những trở ngại ngôn ngữ, thời gian, nơi chốn, tài chánh, đem lại những lợi lạc thiết thực, việc tu học ngày thêm tinh tiến.
Nhưng đáp ứng được ao ước đó của người trẻ, cũng chỉ mới trả lời được cho họ về giải pháp và phương tiện học Phật chứ chưa trả lời được câu hỏi: Làm sao để chọn và tu học một Đạo Phật đích thực? Chúng tôi thiết nghĩ các bạn trẻ khi thừa hiểu rằng Đạo Phật là con đường, là phương tiện dẫn đạo giúp con người đạt tới mục tiêu an lạc, hạnh phúc cho chính mình. Con đường, phương tiện có thể khác nhau, nhưng mục tiêu chỉ là một. Nói như thế cũng có nghĩa Đạo Phật dù được quảng diễn cách nào, là đúng đích thực cho bất cứ ai khi người này nhờ Đạo đó mà thực sự tìm thấy an lạc, hạnh phúc. Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ có lần đã chân tình khuyên bảo giới trẻ (trong bài “Đạo Phật với Thanh Niên”) như sau: “Các bạn trẻ nên tự tìm cho mình một hình thái Đạo Phật thích hợp, không phải là hình thái rập khuôn mẫu do bởi các Anh Chị Trưởng, do các Đại Đức, Thượng Tọa, hay do các nhà nghiên cứu uyên bác… Hãy tự đào luyện cho mình một trí tuệ, một bản lãnh để sẵn sàng lựa chọn hướng đi, và dũng cảm chịu trách nhiệm những gì ta đã lựa chọn và gây ra cho bản thân và cho cả chúng sanh.” và Thượng tọa xác quyết: “Không có Đạo Phật chung chung cho đồng loạt tuổi trẻ. Mỗi cá nhân tuổi trẻ là biểu hiện của mỗi hình thái Đạo Phật sinh động”
2. Làm sao để ứng dụng hữu hiệu Đạo Phật trong cuộc sống hàng ngày?
Trả lời câu hỏi này, người trẻ đã nghe và đọc thấy rất nhiều giải thích tường tận, phân tích cặn kẽ. Người ta bàn nhiều về ích lợi của giáo lý Phật Đà trên nhiều phương diện: bản thân, gia đình, xã hội, dân tộc, và cả thế giới chúng sinh. Người ta trưng dẫn cụ thể và hiệu quả của lòng từ bi, trí huệ, an định, thiền tỉnh. Người ta còn nhắc nhở những lời dạy của Đức Phật về bất công và bình đẳng, chiến tranh và hòa bình, giáo dục và kinh tế. Người ta nhấn mạnh đến vũ trụ quan và nhân sinh quan Phật giáo qua các giáo điển. Nói chung, Phật giáo đáp ứng được mọi thao thức, vấn hỏi, trăn trở của con người về cõi nhân sinh gần gũi đến thế giới vũ trụ bao la, về đời sống hiện tiền lẫn cõi chết mai sau.
Nhưng dù tín mộ Đạo Phật cách mấy, không phải chỉ riêng người trẻ mà cả người cao niên cũng nhận thấy rằng giữa lý tưởng, lý thuyết trong kinh điển Phật giáo và thực chứng, thực hành Phật Đạo ngoài đời còn có khoảng cách rất xa. Bởi thế một nhà nghiên cứu Phật học đã thốt: “Nếu không có khoảng cách đó giữa Đạo Phật lý thuyết và Đạo Phật thực tế thì mọi người chúng ta đã thành Phật cả rồi, và cõi đất này là cõi Phật rồi” Ai cũng rõ, nguyên nhân quảng cách là do người Phật tử không trọn vẹn với hai chữ TU HỌC. Có học, có hiểu mà thiếu tu tập, thực hành. Trong Đạo Thiền, không tinh tấn Thiền tọa, không Thiền tỉnh trong bốn oai nghi được xem không mảy may dính dáng với Thiền.
Với người trẻ các khái niệm Vô Thường, Khổ, Vô Ngã, Tứ Diệu Đế không phải quá khó để lĩnh hội, nhưng lại không dễ dàng gì mà đi vững chãi theo Bát Chánh Đạo. Không dễ dàng gì nhanh chóng loại trừ cái Ngã do tự sinh từ bản năng sinh tồn của con người, do nền giáo dục tri thức lâu dài, do tập quán phổ thông của nhân loại. Không dễ dàng gì rủ lòng bi mà không mềm lòng khiến quên cái dũng. Cũng không dễ phô cái dũng thẳng thừng đi cùng lòng từ hòa, từ ái. Trong việc phát triển Trí Huệ, người trẻ luôn luôn được gia đình, học đường, xã hội khuyến khích, thúc giục và ra sức vu đắp, tài bồi cái Trí thay vì cái Huệ, các quán tính năng động thể lực và tinh thần thay vì sự an tịnh, tỉnh lặng. Người trẻ lắm lúc khó khăn và khéo léo dùng Chánh Ngữ và thiệt ngôn với một người đang bi quan và sắp chết vì căn bệnh hiểm nghèo. Vì học Phật không thông – mà thế nào và biết lúc nào mới gọi là thông – người trẻ dễ phân vân giữa luận lý Đạo Phật lúc thì xác định lúc phủ quyết…
Quan điểm giáo dục học cho rằng những bài nhân văn, đạo đức cần nhắc nhở liên tục vì chúng thuộc phạm trù khái niệm, tư tưởng, không mấy cụ thể, do đó kết quả của những bài học này cũng đến chậm, ít bền vững, và không đong đếm được. Sau nhiều năm tháng dài kết quả của các bài học đó tích lũy thành tập quán, phong tục, nếp sống và đi vào văn hóa. Có lẽ kết quả của học tập giáo lý Đạo Phật cũng như thế. Khó mà tìm thấy kết quả tức thì. Phật phải đặt ra Giới để câu thúc sự chuyên cần tu tập, hành trì. Chúng sanh hiểu Vô Thường, Vô Ngã rất nhân, nhưng Ngộ và Hành động loại trừ Cái Ta và Cái Của Ta lại đến rất chậm có khi gần cuối đời mới đạt được. Người học sinh học văn xuôi, văn vần, bình giảng, phân tích để tìm nét hay vẻ đẹp văn chương; và rồi một ngày kia anh ta biết làm thơ, biết viết văn lúc nào không rõ. Người Phật tử trẻ cũng thế, anh ta cứ thấm nhiễm tư tưởng Phật Đà ngày một hơn, và rồi anh ta cư xử, hành động, ăn nói “như Chánh Pháp’ lúc nào không hay. Học Phật như gieo mạ. Muốn đến thời vụ phải chờ ngày. Muốn thời vụ tốt còn phải tưới nước, trừ sâu, nhổ cỏ dại, canh chừng thời tiết… Cũng thế học một chủ đề giáo pháp còn phải tài bồi bằng nhiều bài khác thì lý đạo mới thêm rõ, nhận thức mới thêm sâu và mỗi lần tu tập thực hành lại phải phản quang tự kỷ mà sửa sai, tinh tấn thêm lên.
Người trẻ học Đạo để an tâm dưỡng tánh và để ứng xử trong đời thường. Họ cũng đang thao thức muốn học hỏi xem quan điểm của Phật giáo ra sao về những vấn đề thời thượng đã và đang xảy ra trong xã hội thời đại như phá thai, ly dị, đồng tính luyến ái, trợ tử, cloning, phá hoại sinh thái,…
Lớp Phật tử trẻ Việt Nam hải ngoại ngày nay phải thường trực sống và chứng kiến sự sa sút của lương tâm nhân loại qua nạn khủng bố tràn lan và chiến tranh truy diệt khủng bố, đang thường trực nghe biết tiếng vọng đau thương của dân tộc trong áp bức, độc tài, đạo lý suy đồi, tệ trạng xã hội đầy dẫy. Lớp người trẻ này đang cần học hỏi, thảo luận và triển khai giáo lý Bồ Tát Đạo để tìm ra con đường nhập thế, nhập cuộc chính đáng, hợp lẽ, hợp tình trước thế tình thế giới và đất nước, thực hiện toàn hảo bài học “Tự giác – Giác tha”; “Tự độ – Độ tha”. Ai cũng nhận rằng thế hệ Phật tử trẻ là người Hộ Đạo đắc lực và đầy khả năng, là tương lai của đất nước, là niềm hãnh diện của quốc dân trên thế giới, nhưng họ đã được đào tạo và huân tập giáo lý Phật Đà đủ nội lực và tinh thần Lý Công Uẩn chưa để chuẩn bị lên đường? Trân trọng kính xin Quý Chư Tăng, quý vị Cư Sĩ Thức Giả, quý Phụ Huynh tâm thành lưu tâm xây dựng và giúp đỡ họ trong việc tu học và hợp quần chặt chẽ trong ngôi nhà Phật giáo Việt nam.
Tháng 11 năm 2004
___________________________________________
Ðường đến Phật
Ninh Hạ Nguyễn Ðức Tâm
Triết học hướng ngoại, hướng về hành động và chân lý thực dụng hơn là những ý tưởng trừu tượng, đóng vai trò chủ đạo hình thành nhân sinh quan của người phương tây (hay ngược lại?). Từ đó, thúc đẩy việc chinh phục thiên nhiên ngoại giới, kể cả vũ trụ bao la, đem lại những tiến bộ sửng sốt về khoa học, kỹ thuật.
Song le, bên cạnh cuộc sống văn minh và sung mãn, người tây phương, đặc biệt là Hoa Kỳ, đang hứng chịu những khủng hoảng tinh thần, ảnh hưởng trầm trọng đến mỗi cá nhân, gia đình và xã hội. Rõ ràng văn minh vật chất không phải là đáp số đúng cho hạnh phúc thật sự của từng con người đơn lẻ, cho sự an bình trật tự của gia đình và xã hội.
Từ thực tế này, người phương tây đang rầm rộ tìm về cội nguồn triết học nghịch chiều hướng nội, Nội quan và Chủ quan chủ nghĩa (Immanentism, Subjectivism); tìm đến với đạo giáo đông phương, đặc biệt là Phật giáo. Ở đây họ tìm thấy lời giải đáp cho những nan đề của thời đại. Phật chỉ cho họ con đường trở về với chính mình, làm sáng cái tâm mình để thấy được bản tánh (minh tâm kiến tánh), để thấy được Niết Bàn ở đây và hiện tại.
Bởi hiện tượng này, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã lên tiếng rằng, nhân loại (có lẽ ngài muốn nói đến người phương tây) đang đứng trước ngưỡng cửa của Chủ quan chủ nghĩa và Nội tại chủ nghĩa.
Cái chung chung là vậy. Trở về với việc trong nhà. Theo cùng số phận tang thương của đất nước, cùng với mọi người Việt, các bậc phụ huynh Phật tử hầu như ai cũng đã trải qua một cuộc đời đầy đau thương sóng gió, gánh chịu và chứng kiến bao nỗi thăng trầm, bể dâu. Từ một đất nước rách bươm, ra đi vì không còn một chọn lựa nào khác, để đến sống tại những quốc gia giàu mạnh. Với kinh nghiệm bản thân, họ thấy rằng Phật đã giúp họ có đủ bi trí dũng để đón nhận bất cứ oan nghiệt nào trong quá khứ, thì nay Phật giáo cũng là đối trọng để giúp cho con cháu mình cân bằng cuộc sống vật chất xô bồ trên đất nước người.
Thế nhưng việc đem đạo Phật đến với giới trẻ ở hải ngoại khó khăn gấp bội so với trong nước. Ở quê nhà, con đường các thanh thiếu niên đến với Phật không khác lắm so với thế hệ chúng tôi đã đi qua.
Trước đây trực diện với chiến tranh chết chóc; nay lại đối đầu với phân ly và đau khổ, với đói khát lo sợ, việc tìm đến với tôn giáo là một nhu cầu tự nhiên. Chúng ta đã tin và sống, hành xử trong tinh thần Phật giáo theo dấu mòn đưa lối của ông bà, cha mẹ. Ðạo đối với chúng ta nặng về những ràng buộc tình cảm. Thêm vào đó tiếng chuông chùa sớm tối, khói trầm hương kinh kệ, ngày rằm mồng một đi chùa, ăn chay niệm Phật, tất cả là cái nôi đạo vị nuôi dưỡng tình tự tôn giáo.
Có thể nói rằng, không có một tôn giáo nào ngoài đạo Phật ở Việt Nam, nơi mà đa số những Phật tử thuần thành lại có một sự hiểu biết rất hạn hẹp về kinh kệ, giáo lý. Phật chỉ đơn giản là đấng từ bi cứu độ. Thuyết nhân quả nôm na là gieo ác gặt ác… Cao siêu hơn một chút, lý giải sự vô thường, được mất, của cuộc đời thì đọc câu kinh Bát Nhã được hiểu một cách mơ hồ, “Sắc sắc không không”. Có mấy ai thông hiểu được sự khác biệt giữa: sắc là không và sắc không khác không! (sắc tức thị không, sắc bất dị không)
Từ thuở ấu thời và mãi cho đến một thời gian dài sau này, khi lễ Phật tụng kinh, chúng ta đều đọc thuộc lòng các bài kinh chữ Hán được phiên âm Việt. Ví như “Khai kinh kệ vô lượng thậm thâm vi diệu pháp, bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ”; hoặc “Nguyện thử diệu hương vân”, mấy câu này, nhờ Hán và Việt có những chữ tương tợ nên cũng lờ mờ, lõm bõm đoán nghĩa. Ðến như kinh Bát Nhã Ba La Mật Ða thì đọc thuộc lòng như cháo, nhưng chẳng hiểu mô tê chi về một tạng kinh gói trọn triết lý căn bản nhất của Phật giáo đại – thừa. “Cố tri bát nhã ba – la – mật – đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú”. Khó quá! Tệ hơn nữa đọc mấy bài chú phiên âm từ tiếng Phạn thì mù tịt. Nghĩa đã không thông mà lý do tại sao phải đọc cũng không hề biết “Hắc ra đa ra dạ da…” hay “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế”!
Thành thử kinh không có tác dụng giúp cho Phật tử hiểu để tin về Phật, hoặc truyền đạt lời cầu nguyện, mà chỉ còn là phương tiện âm thanh để chú tâm mà thôi. Hỏi thử trong chúng ta có bao nhiêu người đến với đạo Phật qua ngõ tri thức nhờ được nghe các “thời pháp” như giới trí thức phương tây tin nhận Phật giáo qua các thiền sư Suzuki, Nhất Hạnh và Ðạt Lai Lạt Ma.
Vì ràng buộc với đạo nặng về tình cảm, thế nên, cũng dễ hiểu nếu một Phật tử từ bỏ đạo để rửa tội theo người yêu, thành chồng, thành vợ. Tình cảm yêu thương đôi lứa, sức mạnh của tình yêu đã mạnh hơn tình cảm tôn giáo bản thân. Họ không có căn bản Phật pháp lý luận triết học, tri thức cần thiết để bám víu cho đức tin của mình.
Chúng ta chẳng những thiếu nhiều giảng sư, tăng sĩ và cư sĩ uyên thâm được đào tạo, mà lại còn thiếu nhiều Kinh sách Việt ngữ giản dị, trong sáng và dễ hiểu.
Từ thế kỷ thứ hai, Việt Nam tiếp nhận Phật giáo qua hai ngõ: Nam với ngài Ma Ha Kỳ Vực và Khương Tăng Hội (Ấn Ðộ); Bắc với ngài Mâu Bác (Trung Hoa) để từ đó hình thành Phật giáo Tiểu Thừa (Nam Tông) và Phật giáo Ðại Thừa (Bắc Tông). Nhưng hầu hết kinh sách lại được dịch từ tiếng Trung Hoa phương Bắc, chứ không phải từ tiếng Sanskrit hay tiếng Pali ở phương Nam. Ðiều này dễ hiểu, vì nước ta tuy tiếp nhận nhiều nguồn văn hóa khác nhau, nhưng văn hóa Trung Hoa qua ngàn năm lệ thuộc, có một ảnh hưởng sâu đậm nhất trên bình diện tổng quát và đặc biệt về Phật học. Ðây nếu là điều thuận lợi cho tổ tiên chúng ta khi học Phật, nhưng lại là điều bất lợi cho chúng ta khi sử dụng kinh sách dịch hiện nay. Vừa tối nghĩa vừa rườm rà.
Phải chăng các thế hệ tổ tiên và ông cha chúng ta vì am hiểu và tinh thông chữ Hán, trực tiếp qua kinh sách bằng tiếng Trung Hoa nên có cái may mắn tiếp cận với Phật giáo chính xác hơn chúng ta?
Lịch sử Việt Nam đã trải qua những giai đoạn phát triển rực rỡ gắn liền với thời hưng thịnh của Phật giáo. Có nhiều lý do để giải thích. Một trong những lý do đó có phải chăng là vì sự xuất hiện của nhiều tăng sĩ Phật giáo kiệt xuất đã vận dụng được tinh hoa triết lý Phật giáo vào đời sống thực tiễn của nhân dân. Và, nếu họ làm được như vậy thì họ phải là những người thông hiểu và thực hành Phật pháp một cách rốt ráo. Bên cạnh các thiền sư Trung Hoa uyên bác như Vô Ngôn Thông, Thảo Ðường, Nguyên Thiều… khai sáng đạo, kinh sách tiếng Trung Hoa là nguồn cung ứng về giáo lý. Hai yếu tố này không thể tách lìa với sự phát triển Phật giáo trong thời đại đó.
Nói như thế vì lịch sử Phật giáo Trung Hoa cho ta thấy họ có những cơ may vô cùng quý giá. Trước hết, về địa lý, Trung Hoa nằm cạnh kề Ấn Ðộ là nơi phát xuất của đạo Phật nên các nhà sư Ấn Ðộ và Trung Á có nhiều thuận lợi để đến truyền giảng chánh pháp. Kế đến, hầu hết kinh sách Phật giáo được dịch ra tiếng Trung Hoa từ nguyên bản tiếng Sanskrit do các sư tăng Ấn Ðộ hay Trung Á; thông thạo Sanskrit thì đã đành, các ngài lại vô cùng uyên bác về Hoa ngữ. Các vị sư tăng này đã cống hiến không những cho Trung Hoa, mà cho cả các nước chịu ảnh hưởng và sử dụng chữ Hán như Nhật Bản, Việt Nam, Ðại Hàn… một gia tài Phật học đồ sộ với khoảng hơn ba ngàn dịch bản trong hơn mười lăm ngàn sách và cuộn kinh.
Tuy rằng kinh sách Phật học Trung Hoa đã do những cao tăng uyên bác hàng đầu dịch thuật từ Sanskrit hay Ấn ngữ. Kinh sách này cũng đã mất mát đi khi so với nguyên bản. Thế nên khi được dịch một lần thứ hai sang Việt ngữ, tránh sao khỏi thiếu sót, rắc rối, khó hiểu cho thế hệ chúng ta, cho giới trẻ. Nhất là ở hải ngoại, những người không biết được tiếng Hán và cũng không thông với tiếng Việt, rất khó khăn khi đề cập đến các vấn đề thuộc về triết học và tôn giáo, nhất là kinh điển Phật giáo. Như đã nói ở trên, trước đây thì kinh được đọc bằng âm Hán Việt. Hàng chục năm nay, với nỗ lực của chư Tăng, nhiều kinh đã dịch ra Việt ngữ. Tuy có dễ hơn, song cũng còn quá khó vì còn có quá nhiều chữ gốc Hán.
Ngày nay, tuổi trẻ học Phật thiếu kinh sách dễ hiểu mà đầy đủ. Cần cả sách song ngữ.
Ta thử đọc một đoạn dịch ngắn trong kinh Thủy Sám của T.T. Thích Trí Quang, ấn bản hải ngoại năm 1992: “Nổi cái phiền não làm cho chướng ngại công hạnh tu học, bốn tứ niệm xứ, bốn tứ chánh cần, năm căn năm lực, bốn thứ thần túc”. Trích bản dịch này vì đây là một bản dịch tương đối giản dị so với các kinh sách được dịch bởi T.T. Trí Tịnh như kinh Ðịa Tạng, Liên Hoa hay các tác phẩm khác của T.T. Thiện Hòa, Thiện Hoa. Có bao nhiêu người đủ trình độ Phật học để hiểu được đoạn kinh bằng chữ Việt này? Có người lập luận rằng đây là kinh nên phải dịch từng chữ. Muốn đạt được ý phải được giảng giải thêm.
Thế nhưng muốn được giảng giải thì, hoặc là đọc sách: sách đã hiếm, mà lời sách chú giảng cũng không kém phần rắc rối, khó hiểu. Hoặc là đến nghe các buổi thuyết pháp: Các buổi thuyết pháp do các sư tăng uyên thâm hay có có trình độ Phật học và có trình độ diễn đạt, thật sự, đáp ứng được lòng mong mỏi học đạo, lôi cuốn được tín đồ, đặc biệt là giới trẻ, thì thật là càng quá hiếm!
Ở trong nước, như đã trình bày ở trên, vượt qua các trở ngại này, tuổi trẻ vẫn tìm đến với đạo qua những ràng buộc tình cảm sẵn có. Rồi từ đó, với nỗ lực cá nhân và duyên nghiệp với đạo, tự mình len lỏi trong khu rừng kinh điển để tìm học Phật. Ở hải ngoại thế nào? Dưới góc độ thực tiễn, Phật giáo rất cần cho họ.
Marx đã “vơ đũa cả nắm” khi cho rằng, “tôn giáo chỉ là ma túy ru ngủ, có tác dụng làm tạm nguôi đi, tạm quên đi những khổ đau, cơ cực của cuộc đời. Tôn giáo không giải quyết căn nguyên của đau khổ”. Qua thực hành Phật pháp, ngay cả trong tuổi thanh xuân chưa vướng bận nhiều với khổ đau và hệ lụy, không ít người đã thấy được Ðạo Phật là con đường rốt ráo giải quyết tận gốc khổ đau, tạo dựng một cuộc sống thật sự an vui, hạnh phúc và yêu đời, yêu người.
Ðược như vậy vì “Chủ yếu của Phật giáo là vấn đề thoát ly ra khỏi sự dục vọng, sự sân hận và sự ngu si, chứ không phải thoát ly ra khỏi cuộc đời”. Ðây là lời của mục sư Ken Tanaka, thuộc viện đại học Berkley, người đã nắm bắt được một phần của mạch nguồn đạo Phật để phản bác quan điểm của Ðức Giáo Hoàng John Paul II khi đề cập đến vấn đề giải thoát của Phật giáo trong tác phẩm nổi tiếng và gây sôi nổi “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” (Crossing the Threshold of Hope), rằng: “… cái gì, được gọi là cõi “Niết Bàn” một trạng thái cách biệt hoàn mỹ của cuộc đời…”(!)
Giáo sư Phật học Minh Chi nói rõ hơn: Phật giáo không bao giờ định nghĩa Niết Bàn như là một thái độ bàng quan hoàn toàn đối với thế gian như Giáo hoàng nói. Niết Bàn là từ bỏ Tham, Sân, Si, là nỗ lực tối đa để con người trở thành hoàn thiện, trở thành bậc Thánh ngay ở thế gian này chứ không phải ở một thế giới nào khác, tại một tương lai xa xôi nào khác. Phật giáo luôn luôn khẳng định: Niết Bàn là ở đây và trong hiện tại.
Chẳng phải hiểu nhiều về giáo pháp căn bản của Phật giáo là thuyết Tương Tức, Tương Nhập (Interdependence), chỉ cần hiểu được rằng những gì cá nhân trải qua đều do Nhân và Duyên mà tạo Nghiệp; Nhân Duyên là cội rễ của nghiệp báo, thì người theo Phật đã chấp nhận cuộc đời một cách tích cực kể cả khi bất hạnh hay lúc hưng thịnh.
Trong một xã hội đề cao sự hưởng thụ cá nhân, dục vọng được buông thả. Luật pháp không thể nào kìm hãm được những hành động thiếu đạo đức, lòng tham lam ích kỷ và sự hận thù oán ghét. Chỉ có luật nhân quả mới hướng dẫn con người làm việc lành. Việc này không những giúp cho cá nhân, gia đình có được hạnh phúc mà cộng đồng và xã hội cũng được hòa bình và an lạc.
Phần tích cực nhất, trong phần thực hành Phật giáo đã cống hiến Thiền, một phương pháp tu hành rất hiệu nghiệm, càng ngày càng được sự lưu tâm và thu nhận của đông đảo mọi giới ở Âu Mỹ, nơi mà hiện nay có tới 500 trung tâm Phật giáo. Một trung tâm lớn được thiết lập kề sát Tòa Thánh La Mã. Sự kiện này, Ðức Giáo Hoàng đã ghi nhận “Phật giáo đến với người của khối Thiên Chúa giáo tây phương, khuấy động sự chú trọng về phương diện tâm linh, cũng như trong đường lối cầu nguyện của người Phật giáo”. Và “Ngày hôm nay chúng ta đang thấy một sự lan tràn nào đó của Phật giáo trong thế giới Tây phương”.
Ðằng sau sự sung mãn về vật chất và tiến bộ vượt bực về khoa học kỹ thuật của phương Tây, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đã thấy được sự trống vắng, cô đơn của mỗi cá nhân. Sự khủng hoảng về tâm linh của họ trên hành trình đi tìm một hạnh phúc đơn giản ở thế gian. Phật giáo và phương pháp Thiền là đáp ứng vẹn toàn cho sự khắc khoải đó. Thiền sư Nhất Hạnh cũng đã đóng góp công lao không nhỏ trong thành quả này.
Ðiều nghịch lý là trong khi đó thì thanh niên Việt Nam, xuất thân từ các gia đình Phật tử, lại không mấy quan tâm, nếu không muốn nói là lơ là xa lạ.
Nếu nói việc đem đạo đến với giới trẻ ở hải ngoại, nhất là ở Hoa Kỳ, khó khăn gấp bội so với quê nhà thì lý do ở đâu? Ở tự thân giới trẻ hay tại vì chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn để lôi cuốn họ?
Ngoài tất cả khó khăn gặp phải như giới trẻ ở quê nhà, ở hải ngoại họ còn cái mất mát là, chẳng còn hay còn lại rất ít được ôm ấp trong “cái nôi đạo vị nuôi dưỡng tình tự tôn giáo”. Ðiều này thật vô cùng quan trọng. Tôi nhớ rất rõ một kinh nghiệm, và, trong chúng ta ai cũng có một kinh nghiệm của riêng mình, mãi mãi đọng lại trong ký ức, gắn bó mình với đạo.
Lúc còn là một học sinh, một buổi chiều mùa hè đạp xe lên chùa Thiên Mụ thăm người bạn học hiện đang tu ở đó. Chú đang bận khóa kinh chiều. Ðứng trước chánh điện mênh mông vắng lặng. Nghe tiếng thông reo rì rào trong gió chiều. Mùi trầm hương phảng phất. Tiếng mõ, tiếng kinh, trong không gian mênh mông đó, như vẳng lại từ một nơi nào xa thẳm. Thật lạ lùng tất cả âm thanh không hề khuấy động mà dường như tăng thêm cái tĩnh lặng của một buổi chiều. Tôi đã hứng được, đã nắm bắt được cái khoảnh khắc tuyệt vời đó. Cái khoảnh khắc mà sau này, dù theo những kỹ thuật ngồi Thiền: hít vào, thở ra, nín thở… tôi chẳng bao giờ gặp lại được. Các bạn trẻ đâu có cái diễm phúc của thế hệ chúng tôi hay các bạn bè cùng lứa ở quê nhà.
Không chùa, thử… trở về nhà?
Ở Việt Nam, nhà nào cũng dành gian giữa hoặc nơi trang nghiêm nhất để lập bàn thờ Phật và gia tiên. Ngày hai buổi thắp nén hương, gióng một hồi chuông lễ Phật. Từ lúc sinh ra, đến khi trưởng thành, từ thời ông bà, cha mẹ đến đời mình. Mọi chuyện trở thành một nếp sinh hoạt thân quen. Do điều kiện nhà cửa sinh sống ở Mỹ. Chuyện thờ tự cũng mất đi vẻ trang nghiêm. Nơi đầu tủ, một góc nhà, nơi phòng ngủ, dưới basement…, tiện đâu thờ đó. Mùi trầm không có, khói hương cũng năm khi mười họa. Hương cắt ngắn, nhúng nước cho bớt khói, khỏi đen nhà. Chuông chẳng dám đánh… sợ hàng xóm!
Thời còn nhỏ, chúng ta phải đổi mới được theo cha mẹ đến chùa. Lớn lên, chẳng ai thúc hối, không tháng tháng thì cũng thỉnh thoảng đến chùa lễ Phật. Bây giờ, muốn con đi chùa hay dự những buổi sinh hoạt, thuyết giảng, ngày tết, ngày lễ, ngày vía…, nhỏ đã khó nói, lớn lên là học sinh, sinh viên lại càng khó hơn. Ðầu tiên chúng cũng háo hức. Ðược một hai lần bắt đầu thấy nản; không thoái thác thì cũng lấy lý do bận học, bận làm… để khỏi buồn lòng cha mẹ. Ði chùa vì cha mẹ chứ không phải vì Phật! Có đứa than phiền không hiểu được cái thư mời nói gì: “Cung thỉnh quý vị đạo hữu, chư thiện tri thức quang lâm vân tập?…!!!”.
Cha mẹ dịch đại khái ra tiếng Mỹ: “You are warmly Welcome”. Chúng nhe răng cười. Tiếng Việt đâm ra khó hiểu hơn tiếng… ngoại quốc! Ðến chùa, đến hội, mạnh thầy, thầy giảng, tràng giang đại hải. Một là quá khó. Hai là chẳng ăn nhập gì với ưu tư vướng mắc của chúng. Ngồi chịu trận, liếc chừng xem cha me có theo dõi hay không. Tâm trí phiêu bồng theo một câu chuyện riêng tư, một game đang chơi nửa chừng ở nhà, hay tung tăng lạc bước ở một Shopping Center nào đó! Ði chùa chỉ còn lại tác dụng ngoài dự tính, là tập cho tuổi trẻ “kiên nhẫn” và “tròn chữ hiếu”!!!
Kinh kệ sách giảng trong sáng, đơn giản, dễ hiểu đã đành, mà hình thức thờ tự lễ lạc trang nghiêm, nhưng cũng phải đơn giản.
Sinh hoạt ở làng Hồng của thầy Nhất Hạnh nếu không phải là mẫu mực thì ít ra cũng là một cách mạng cần thiết nếu muốn giúp cho tuổi trẻ đến với Phật và sống theo đạo. Nếu xưa kia các sư tăng phải thông Hán học thì nay, do yêu cầu mới, các ngài, các thầy phải thông Anh ngữ. Ðây là điều hết sức cần thiết. Các em sinh ra hay lớn lên ở Hoa Kỳ, cho dù gia đình vẫn cho trau dồi Việt ngữ, các em cũng rất hạn chế về từ ngữ Hán – Việt để hiểu được các danh từ Phật học. Các em mới sang định cư, có khá hơn nhưng cũng lắm vất vả, truân chuyên.
Chắc chắn nói “Bát chánh đạo”, “Tứ diệu đế” khó hiểu hơn là “The Eightfold Path”, Four Noble Truths”. “Right Thinking” rõ ràng hơn là “Chánh Tư Duy”. Cả hai đều là tiếng ngoại quốc, có điều Hán ngữ đã thuộc về quá khứ. Anh ngữ là thứ tiếng đang học và đang sử dụng. Rất cần thiết có nhiều kinh sách song ngữ. Thêm vào đó, tuổi trẻ ở hải ngoại được hưởng một nền giáo dục khoa học kỹ thuật cao, các giảng sư nhất định phải có đủ trình độ và bản lĩnh, cũng như dùng Phật pháp để lý giải các nan đề của tâm linh và cuộc sống thực tế. Tóm lại, yêu cầu cho một sư tăng truyền đạo ở hải ngoại cao hơn nhiều, khó khăn hơn nhiều so với trong nước.
Vào thập niên ba mươi, bốn mươi ở Việt Nam đã hình thành hệ thống Khuông hội và Gia Ðình Phật Tử. Khuông hôi là nơi nương tựa Phật và Pháp cho cư sĩ tại gia và gia đình tận ngõ ngách, thôn làng. Dựa vào Khuông hội là tổ chức Gia Ðình Phật Tử. Qua hình thức sinh hoạt trẻ trung, sống động, GÐPT đã giáo dục thanh thiếu nhi học Phật và sống theo Phật. Ðây là những sáng kiến tuyệt vời, đúng lúc, hữu hiệu. Ở hải ngoại đang cần những cải cách sáng tạo có tầm mức như vậy. Gia Ðình Phật Tử nếu muốn đóng góp trong sự nghiệp giáo dục Phật giáo ở hải ngoại chắc cũng cần rất nhiều thay đổi cả hình thức lẫn nội dung cho thích hợp.
Chicago, Illinois
___________________________________________
Người Huynh Trưởng thời đại
Thị Nghĩa Trần Trung Ðạo
Tham luận của Thị Nghĩa Trần Trung Ðạo nhân Đại Hội Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại Hoa Kỳ, 2001
“… Ôi thân yêu bóng chùa Từ Đàm, nơi Bắc Nam nối liền một nhà, tay trong tay quyết vì loài người, đời lầm than…” Tôi nghe bài hát Từ Đàm Quê Hương Tôi này nếu không phải một nghìn lần thì cũng vài trăm lần. Trong chiếc máy vi tính cá nhân ở hãng của tôi chỉ có mỗi một bài hát đó. Giờ rảnh rỗi tôi lại nghe. Nghe đi và nghe lại. Nghe để nhớ về Huế, nhớ về ngôi chùa Từ Đàm lịch sử của Phật Giáo Việt Nam.
Huế còn có căn phòng nhỏ ở số 1B đường Nguyễn Hoàng. Trong căn phòng nhỏ đó, Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Hóa Phổ được chính thức thành lập. Những viên gạch đầu tiên, trẻ trung và nóng đỏ nhiệt tình đã được lót lên con đường dài 60 năm đầy thăng trầm của Gia Đình Phật Tử Việt Nam. Những đoàn viên đầu tiên của tổ chức được các thầy gắn huy hiệu hoa sen trên chiếc áo lam hiền hòa, chơn chất, biểu tượng của tinh thần Phật Giáo Việt Nam. Từ đó đến nay, bao nhiêu thế hệ huynh trưởng và đoàn viên đã trưởng thành, bao nhiêu mái đầu xanh đã may mắn được tắm gội đời mình trong dòng sông Lam của Từ Bi, Trí Tuệ và Dũng Lực đó. “Các chú bé”, “các cô bé” của hơn nửa thế kỷ qua, dù còn hay mất, dù ở lại với đoàn hay đã ra đi vì những chọn lựa riêng tư của đời họ, tôi tin, màu áo lam vẫn còn in đậm trong tâm tư, trong tim, trong máu của mỗi đoàn viên, của từng anh chị trưởng. Đừng nói chi đến các giáo lý vi diệu mà Đức Từ Phụ đã để lại trong ba tạng kinh điển, chỉ đơn giản trau dồi đức hạnh để trở thành con người tốt như chúng ta đã học trong năm điều luật của Gia Đình Phật Tử đã là một việc khó khăn và đáng được ca ngợi lắm rồi.
Thiết tha với Huế như thế nhưng tôi không sinh ra và cũng chẳng lớn lên ở Huế. Tôi là người Quảng Nam. Tôi chưa bao giờ đến viếng chùa Từ Đàm mặc dù đã thăm Huế vài lần. Tôi cũng chưa từng đặt chân đến căn nhà số 1B đường Nguyễn Hoàng. Tôi chỉ học những địa danh, nơi chốn qua lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Ngày tôi học xong lớp 12, thầy tôi bảo ra Huế học để các huynh đệ của thầy giúp đỡ cho tôi. Tôi đã không vâng lời thầy. Huế tĩnh lặng quá. Huế trầm mặc quá. Huế không thích hợp với cá tính sôi nổi của tôi. Và như thế, cậu thanh niên xứ Quảng từ giả hai cây đa già, từ giã chùa Viên Giác, từ giã văn phòng Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Quảng Nam, mang hành trang Bi Trí Dũng bước vào đời. Giờ đây trên xứ lạ, mỗi khi nghe giọng Huế của người nữ ca sĩ mà tôi chưa biết tên cất lên “Quê hương tôi miền Trung…”, tôi lại nghe lòng chùng xuống khi nghĩ về Huế, nghĩ đến công ơn của chư tôn đức, của các anh chị trưởng đáng kính đã từ tổ đình uy nghiêm đó, từ căn phòng khiêm nhượng đó, từ thành phố thân yêu đó dấy lên phong trào chấn hưng Phật Giáo sau bao nhiêu năm bị bạc đãi, đàn áp dưới thời phong kiến và Thực Dân.
Phong trào chấn hưng Phật Giáo và sự ra đời của tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam trong cùng thời điểm, là một phản ứng tự nhiên của một tôn giáo, mà trong suốt dòng lịch sử đã gắn liền với sinh mệnh của đất nước. Trong nhiều ngàn năm trước, từ khi chư tổ mang ánh sáng Từ Bi đặt chân lên mảnh đất của Vua Hùng, đạo Phật không chỉ là đạo Phật thôi mà còn là Phật Giáo Việt Nam. Phật Giáo Việt Nam không chỉ là một tôn giáo đem lại cho con người những phương tiện cần thiết để đạt đến giải thoát, an lạc, nhưng đã dung hóa và dung hợp một cách hài hòa vào lòng dân tộc, góp phần quan trọng trong việc xây dựng nền tảng văn hóa, đạo đức của dân tộc Việt Nam. Đạo Phật đến Việt Nam không phải như những hạt phấn thông vàng bay vô định trong không gian hay một dây chùm gởi nhưng như là chất nhựa nguyên hòa tan và nuôi sống cây cổ thụ bốn ngàn năm Việt Nam. Tách rời Phật Giáo ra khỏi dân tộc Việt Nam chẳng khác gì hút hết đi sức sống của một cây cổ thụ. Phật Giáo và Dân Tộc gắn liền với nhau đến nỗi cụ Phan Chu Trinh có lần đã viết: “Thời đại nào Phật Giáo suy yếu là thời đại đó dân tộc suy yếu”.
Đọc lại lịch sử dân tộc Việt Nam. Sau ba trăm năm bị đóng khung trong tứ thư ngũ kinh Nho Giáo và Trịnh Nguyễn phân tranh, dân tộc Việt trở nên lạc hậu, lạc mất tầm nhìn về tương lai, xa dần bản sắc dân tộc và gần như kiệt sức. Tổ tiên chúng ta bàng hoàng trước sức mạnh cơ khí của Thực Dân. Hàng ngàn, hàng vạn người dân Việt đã gục xuống như rơm rạ trước họng súng của quân xâm lược. Trong suốt hậu bán thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18, bóng tối Thực Dân phủ trùm trên đất nước. Nô lệ. Xiềng xích. New Guinea. Reunion. Những gốc cao su còn cắm đầy xương trắng của phu đồn điền Việt Nam bất hạnh. Những máy chém chưa khô màu máu đỏ của những người dân yêu nước. Thế nhưng, niềm tin vào tinh thần độc lập, đặc tính tự chủ, khai phóng bắt nguồn từ thời Văn Lang dựng nước, trong lòng mỗi người dân Việt nói chung và mỗi người Phật Tử Việt Nam nói riêng, vẫn âm ỉ cháy. Các cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc đã bùng nổ khắp nơi và trong nhiều hình thức.
Hòa nhịp với phong trào chấn hưng Phật Giáo thế giới và song song với các phong trào yêu nước, đặc biệt phong trào Duy Tân, các bậc cao tổ Giác Nguyên, Khánh Anh, Giác Tiên, Giác Nhiên, Tịnh Hạnh, Từ Quang, Phước Huệ, Tố Liên, Trí Hải… cũng đã rời những thiền phòng kín đáo của các ngài để chống gậy trúc đi vào lòng đất nước. Các ngài đã lắng nghe nỗi đau của dân tộc, đánh thức tinh thần yêu nước, gõ cửa căn nhà độc lập tự chủ trong lòng mỗi người dân Việt, để qua đó phục hưng tinh thần dân tộc bằng phương tiện giáo dục và khả năng chuyển hóa các nguồn đối lực của đạo Phật. Hãy thức dậy đi Việt Nam ơi. Tiếng gọi của tổ tiên Lạc Việt như đang vọng về từ Phong Hóa, Mê Linh, Như Nguyệt, Bạch Đằng. Chấn hưng Phật Giáo trong ý nghĩa đó chính là một cuộc hành hương vĩ đại của cả dân tộc tìm về với những uyên nguyên đã tạo nên chính dân tộc Việt Nam.
Tổ chức Gia Đình Phật Tử, người con trung kiên của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, tiền thân của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, cũng đã từ ánh sáng của tinh thần chấn hưng Phật Giáo đó mà lớn lên. Gia Đình Phật Tử Việt Nam không còn là một nhóm nhỏ những thanh thiếu niên tập tành học Phật dưới sự hướng dẫn của Trưởng giả Tâm Minh Lê Đình Thám hay cụ Tôn Thất Tùng ở Huế, nhưng là một tổ chức với hàng vạn đoàn viên hoạt động hăng say và hữu hiệu trong khắp ba miền đất nước. Gia Đình Phật Tử Việt Nam không còn là một đoàn lữ hành cô đơn trên con đường vắng lặng chưa hề có dấu chân ai nhưng là một phong trào thanh niên sống động có mặt trong mọi nẻo đường. Từ các đô thị sầm uất cho đến tận những thôn làng hẻo lánh, từ cố đô Thăng Long cổ kính cho đến vùng Cà Mau nước ngập vừa mới được khai hoang, đâu đâu cũng có bóng áo lam hiền hòa, nhân hậu, đoàn kết, thương yêu và đùm bọc lẫn nhau. Họ đào kinh, mở đường, đắp đập, mở lớp Việt ngữ bình dân. Trên những chuyến ghe dọc bờ sông Hồng, sông Hương, sông Thu Bồn, sông Vàm Cỏ, trên những chiếc xe đạp dọc bờ ruộng lúa Cần Thơ, Sóc Trăng, trên những chuyến xe đò dọc theo chiều dài đất nước, những bài ca yêu nước bằng tiếng Việt được hát lên giữa trời quê hương đất Việt. Những bản nhạc bằng tiếng Tây như La vie est belle, Chanson d’adieu, v.v.. mà tuổi trẻ Việt Nam hay hát thời bấy giờ đã được các trưởng Lê Lừng, Bửu Bác thay bằng Dây Thân Ái, Về Bến Ngự, Trầm Hương Đốt. Ánh lửa trại sáng trong đêm báo hiệu của niềm tin tuổi trẻ Việt Nam đang bừng bừng sống dậy và tiếng còi thổi vang như đánh thức tuổi thanh niên đang chìm trong cơn ác mộng hãi hùng. Những người con Phật Việt Nam, những anh chị trưởng mang trên vai sứ mệnh của người huynh trưởng thời đại Chấn Hưng Phật Giáo và Phục Hưng Dân Tộc, hăng hái lên đường.
Bằng hành trang Bi Trí Dũng, Gia Đình Phật Tử Việt Nam từ đó, đã đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chương trình hoằng pháp độ sanh của Giáo Hội. Gia Đình Phật Tử là lực lượng tiên phong trong các nỗ lực nhằm kiến tạo hòa bình đất nước, tranh thủ quyền tự do bình đẳng tôn giáo và công cuộc vận động dân chủ do giáo hội đề xướng trong suốt 60 năm qua. Hẳn nhiên, không có thành quả nào mà chẳng đòi hỏi sự hy sinh. Bên trong niềm vui trước những thành quả to lớn mà Gia Đình Phật Tử Việt Nam đã gặt hái được trong 60 năm khôn lớn, là nỗi đau vô kể của bao nhiêu thế hệ đoàn viên đã phải chịu đựng trong đàn áp, lao tù, tra tấn. Những cảnh đau thương vẫn chưa nhòa đi trong ký ức của những người huynh trưởng Phật Tử Việt Nam. Và từ trên vùng đất quê hương nhuộm bằng máu xương và nước mắt của các anh chị trưởng, đã nở lên những cành Hoa Đạo tuyệt vời. Các anh chị đã hy sinh để các thế hệ chúng ta hôm nay và các em, các cháu ngày mai được tiếp tục sống trong tình thương, hòa bình và an lạc. Các anh chị trưởng đã nối chiếc Dây Thân Ái bằng máu xương và da thịt của chính mình. Xin chúng ta cùng dừng lại nơi đây một phút để lắng lòng tưởng nhớ đến các anh trưởng, các chị trưởng kính yêu của đại gia đình Phật Tử Việt Nam.
Nhìn lại những cuộc bể dâu, thăng trầm của thời thế, nhiều “cư sĩ Phật Giáo” đã bỏ đi, đã từ chối quá khứ, đã dửng dưng giữa lúc con thuyền đạo pháp đang nghiêng ngửa, đã bỏ mặc sự an nguy của chư tôn đức tăng ni đã một thời dạy dỗ, chở che họ, nhưng các đoàn viên Gia Đình Phật Tử Việt Nam thì khác. Trong sáu Vụ trực thuộc Tổng Vụ Thanh Niên chỉ có Gia Đình Phật Tử Vụ là còn tồn tại, còn chống đỡ với bao nhiêu trấn áp, ngay cả trong thời điểm hiểm nguy nhất của sinh mệnh dân tộc và đạo pháp. Nhìn một huynh trưởng Gia Đình Phật Tử trong chiếc áo lam vá hàng chục mảnh, ôm cây đàn cũ kỹ tập hát cho các em đoàn viên trong chương trình văn nghệ mừng đại lễ Phật Đản trong sân chùa những năm sau 1975, chúng ta sẽ cảm thương và cảm động biết bao. Ngày mai, người huynh trưởng đó có thể ngồi viết bài tự kiểm mấy mươi trang và thậm chí có thể vào tù. Nhưng anh không sợ hãi. Lý tưởng cao cả của người huynh trưởng đã giúp anh đứng dậy và tiếp tục hành trình. Dù đi trong bão táp mưa sa, các anh chị trưởng và đoàn viên Gia Đình Phật Tử bao giờ cũng là những cánh chim trung kiên, hiếu thảo, vẫn ráng bay về tổ cũ, vẫn cố giương đôi cánh mỏng bảo vệ giáo hội, bảo vệ thầy và chở che cho đoàn đội của mình.
Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 đã đẩy hàng triệu người dân Việt, trong đó có nhiều ngàn đoàn viên Gia Đình Phật Tử Việt Nam, rời xa tổ ấm. Những đoàn viên Gia Đình Phật Tử các cấp dù phải ra đi nhưng vẫn không quên lời phát nguyện từ thuở vào đoàn. Nơi nào có huynh trưởng Gia Đình Phật Tử là nơi đó có Gia Đình Phật Tử sinh hoạt. Từ các trại tỵ nạn cho đến bước đường định cư tại nhiều nước thứ ba, các anh các chị luôn tìm mọi cách để gầy dựng lại tổ chức mình. Những nơi có chùa thì gia đình sinh hoạt trong chùa. Những nơi không có chùa thì gia đình sinh hoạt trong công viên, trong trường học, trong cả sân nhà thờ của các tôn giáo bạn. Dù khó khăn vất vả, các anh các chị vẫn tin tận đáy lòng rằng Gia Đình Phật Tử Việt Nam, với một lý tưởng cao đẹp, với truyền thống, quy chế kỷ cương đã bắt đầu từ nhiều năm trước, sẽ tồn tại và phát triển tại hải ngoại.
Sau 28 năm, với bao nhiêu cố gắng và hy sinh, đau lòng mà nói, thực tế đã không diễn ra như các anh chị nghĩ. Gia Đình Phật Tử theo thời gian đã suy yếu dần. Với hàng mấy trăm gia đình Phật Tử của thời điểm 1980, ngày nay con số và danh xưng có thể còn có đó nhưng thực lực đã hao mòn nhiều theo năm tháng. Người đi thì nhiều, người đến thì thưa và người còn lại thì mệt mỏi. Và hôm nay, với tư cách một đoàn viên 40 năm của Gia Đình Phật Tử Việt Nam và cũng là người theo dõi các sinh hoạt của Gia Đình trong suốt 10 năm nay, tôi xin thưa với quý anh chị, nếu chúng ta không can đảm thực hiện những thay đổi cấp bách và căn bản, trong một thời gian ngắn nữa, Gia Đình Phật Tử Việt Nam hải ngoại có thể sẽ không còn tồn tại.
Tại ai và tại sao?
Tôi đã đọc nhiều bài báo, tham luận, biên bản đại hội giải thích lý do sự suy yếu của tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam hải ngoại. Tôi có nhiều dịp đảnh lễ chư tôn đức và lắng nghe mối quan tâm của các ngài đối với tương lai của Gia Đình Phật Tử Việt Nam hải ngoại. Tôi có dịp trao đổi với các anh chị trưởng các cấp trong vùng Đông Bắc Hoa Kỳ cũng như Hoa Kỳ và Hải Ngoại về tình trạng tạm gọi là yếu dần của tổ chức Gia Đình Phật Tử. Hàng trăm lý do, khách quan và chủ quan, tích cực và tiêu cực, được đưa ra, được viện dẫn để quy trách tình trạng hiện nay của Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại hải ngoại. Lý do nào cũng đúng. Viện dẫn nào cũng hợp lý. Lý lẽ nào cũng hùng hồn. Thế nhưng một câu hỏi mà tôi chưa từng được nghe, chưa từng được trả lời thỏa đáng, đó là, hướng đi đích thực nào dành cho tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại hải ngoại?
Thoạt nghe câu hỏi có vẻ ngây ngô, thừa thãi. Chẳng lẽ 28 năm qua chúng ta đi lạc giữa rừng già? Chẳng lẽ mục đích của Gia Ðình Phật Tử là đào tạo Thanh, Thiếu, Ðồng Niên trở thành những Phật Tử chân chánh và góp phần vào việc cải tạo xã hội theo tinh thần Phật Giáo cũng cần phải thay đổi hay sao?
Hẳn nhiên mục đích đào tạo Thanh, Thiếu, Ðồng Niên trở thành những Phật Tử chân chánh không thay đổi nhưng đối tượng để đào tạo thì đã thay đổi hoàn toàn. Tương tự, cải tạo xã hội theo tinh thần Phật Giáo không thay đổi nhưng đối tượng xã hội mà những người Phật Tử cần cải tạo đang thay đổi từng giờ, từng phút. Vũ trụ như là một dòng sông không ngừng chảy và biến đổi trong từng sát – na của ý niệm, đừng nói gì là 60 năm với biết bao nhiêu sao dời vật đổi. Trong mắt đạo Phật, không có sự vật nào là vĩnh cửu, là tồn tại độc lập. Xã hội ngày nay không phải là xã hội của 60 năm trước. Xã hội mà các thế hệ đang sinh ra, đang lớn lên không phải là xã hội mà cha anh chúng đã sống 60 năm trước. Những suy tư, trăn trở, lo âu, ước vọng, đam mê của thế hệ trẻ ngày nay hoàn toàn khác với thế hệ trẻ của 60 năm về trước. Đối tượng để cải tạo thay đổi thì các phương pháp, phương tiện cũng phải thay đổi một cách thích nghi.
Một cách tóm tắt, mục đích đào tạo Thanh, Thiếu, Ðồng Niên trở thành những Phật Tử chân chánh và góp phần vào việc cải tạo xã hội theo tinh thần Phật Giáo của Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại hải ngoại có đạt được hay không, và thậm chí tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại hải ngoại có tồn tại hay không, tùy thuộc vào việc chúng ta chọn lựa một trong hai hướng phát triển dưới đây:
Phải chăng chúng ta muốn có một tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại hải ngoại đóng vai trò như một bộ phận bất khả phân ly của tổ chức Gia Đình Phật Tử trong nước, trên đó xây dựng một hệ thống lãnh đạo theo dạng kim tự tháp; dùng các cấp Tập Tín Tấn Dũng làm tiêu chuẩn phân định quyền hạn và trách nhiệm; dùng phương tiện trại (Lộc Uyển, A Dục, Huyền Trang, Vạn Hạnh) làm thước đo cho trình độ tu học và khả năng lãnh đạo của mỗi đoàn viên; đối xử với nhau theo nề nếp gia phong, thương yêu nhưng nghiêm khắc, hy sinh nhưng phục tùng, anh nói em nghe, chị nói em nghe; học tập theo các tài liệu, phương án, giáo trình bằng tiếng Việt được soạn sẵn từ nhiều chục năm trước; khép kín trong các hình thức và cơ cấu tổ chức nặng tính tập trung?
Phải chăng chúng ta muốn một tổ chức Gia Đình Phật Tử, dù bắt nguồn từ Gia Đình Phật Tử Việt Nam trong nước nhưng phát triển thích nghi trong một môi trường mới với một hệ thống xã hội mở; kính trọng các nguyên tắc dân chủ và bình đẳng, trong đó, các đoàn viên đã phát nguyện đều có quyền hạn và trách nhiệm như nhau đối với sinh mệnh của tổ chức, kể cả việc bầu ra các cấp trưởng để lãnh đạo mình; mở rộng việc phát triển đoàn vào các cấp trung học, đại học và các tầng lớp chuyên gia tại các công tư sở, phát động phong trào học Phật (Buddhism Study) trong giới trẻ tại các đại học; mở rộng mạng lưới liên kết để học Phật trong giới trẻ với các nhóm, các tổ chức Phật Giáo tại các quốc gia mà chúng ta đang cư ngụ; các trại huấn luyện được thay bằng các lớp giáo lý ở chùa; các hội nghị Phật học bằng hai thứ tiếng do chư tôn đức giảng dạy mỗi mùa hè; khuyến khích đoàn viên ghi học các môn Phật học tại đại học; tổ chức các hội thảo chuyên đề về giáo dục, văn hóa, khoa học kỹ thuật để đào tạo đoàn viên thành những chuyên viên giỏi, đa dạng về chuyên môn lẫn tư cách lãnh đạo (leadership); dấn thân vào các hoạt động văn hóa, xã hội để đem lại lợi lạc cho địa phương nơi đoàn viên đang cư ngụ thay vì quanh quẩn trong đoàn quán của mình với những bài hát thiếu nhi; đơn giản hóa các thủ tục và hình thức kể cả đồng phục; trẻ trung hóa và sinh động hóa hoạt động của đoàn?
Không phải phân tích hay suy luận nhiều chúng ta cũng đủ biết các phương pháp sau chính là những phương pháp cần thiết và thích hợp với đà phát triển của xã hội con người ngày nay.
Hai mươi tám năm, chúng ta đã đi trên con đường quá khứ mà lòng vẫn nghĩ hay đã tự dối lòng rằng chúng ta đang hướng đến tương lai. Hai mươi tám năm, chúng ta đang đi ngược chiều cây kim thời đại mà vẫn tin rằng chúng ta đang tiến đến một chân trời mới. Không có tương lai nào cả. Không có chân trời mới nào cả. Phần lớn sinh hoạt đoàn diễn ra trong suốt 28 năm qua ở hải ngoại, từ con người cho đến phong cách, từ tâm thức cho đến hành động, chỉ là một khoảng nối dài của Huế, của Sài Gòn, của Cần Thơ, của Đà Lạt chứ không phải của Santa Ana, của Boston, của London, của Victoria.
Thật vậy, phần lớn các anh chị trưởng trong cấp lãnh đạo trung ương của Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại hải ngoại thuộc thế hệ huynh trưởng của giai đoạn từ thời gian chính thức thành lập 1951 cho đến đại hội 1964, sau mùa Pháp Nạn 1963. Đó là thời các anh chị mới ngoài 20 tuổi. Một nửa thế kỷ đã qua đi. Hàng me trước trường Gia Long, nơi họp đại hội Gia Đình Phật Tử năm 1964, đã tròn 40 mùa thay lá. Không ít các anh chị trưởng đặt chân lên đất Mỹ khi tuổi tác đang trong buổi về chiều, sau nhiều năm dài trong lao tù, xiềng xích, đói khát, bệnh tật. Màu áo lam vẫn chưa phai, lý tưởng Gia Đình Phật Tử vẫn còn nguyên vẹn nhưng lực đã bất tùng tâm. Cuộc chiến đẫm máu đã để lại những vết thương hằn sâu trong thân thể và trong cả tâm hồn các anh chị, không thể sớm chiều mà quên đi được. Hậu quả tiêu cực của vết thương thể hiện trong từng câu nói, trong từng hành động và trong từng cách giải quyết một vấn đề.
Các anh chị lại phải đối diện với một xã hội mới, trong đó gần như mọi sinh hoạt hằng ngày đều được tự động hóa và hệ thống hóa. Các anh chị điều hành các đoàn, đội, trong đó, đa số các em sinh ra và lớn lên tại hải ngoại. Một đoàn viên sinh ra trên chiến hạm, trong trại tỵ nạn, trong những ngày đầu định cư, bây giờ đã gần 30 tuổi. Các em ăn hamburger, học tiếng Mỹ, đi vào đời không bằng những câu ca dao nhưng bằng những trò chơi vi tính, bằng phim hoạt họa. Tiếng mẹ đẻ của các em không phải là tiếng Việt mà là tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Pháp. Trong lúc tiếng gọi của cội nguồn văn hóa Việt thúc giục các em tìm đến chùa học Phật, cùng lúc, các em lại cảm thấy cô đơn, lạc lõng, xa lạ với chính tổ chức của mình. Nhiều trong số các em là bác sĩ, kỹ sư, chuyên viên kinh tế tài chánh. Họ là những người đóng vai trò quan trọng trong nhiều công ty Mỹ, trong xã hội Mỹ, thế nhưng, trong sinh hoạt đoàn thì được đối xử như những đứa bé còn chập chững. Lý do bởi vì các em không quen thuộc với lối sinh hoạt nặng tính thủ công của Gia Đình Phật Tử, và ngoài ra, các em không rành tiếng Việt. Các em buộc phải rời đoàn. Ngày nay đa số đoàn viên Gia Đình Phật Tử là các đội oanh vũ, đồng niên và ngành thiếu mặc dù Gia Đình Phật Tử Việt Nam không phải chỉ là một tổ chức thiếu nhi và lại càng không phải là một đoàn văn nghệ. Nhiều em kiên nhẫn hơn, cố gắng khắc phục bằng cách học thêm tiếng Việt ở nhà, ở chùa, ở các trung tâm Việt Ngữ. Dù cố gắng bao nhiêu, vốn liếng Việt Ngữ của các em cũng chỉ đủ để kêu món ăn trong nhà hàng, để chào hỏi nhau ngoài phố, làm sao có thể qua đó mà thấm nhuần giáo lý Phật Đà. Không một trường Việt Ngữ nào có thể dạy cho các em hiểu được ý nghĩa của Tứ Ân, Lục Hòa đừng nói chi là Bát Chánh Đạo, Tứ Diệu Đế cao thâm vi diệu.
Không ai có thể phủ nhận tấm lòng của các anh chị đối với tổ chức, với các thế hệ đoàn viên. Lịch sử gia đình chúng ta đã nhiều lần chứng minh, nếu cần phải chết để tổ chức còn tồn tại, nếu cần phải chết để các em được sống, các anh chị không ngần ngại mà hy sinh. Gia Đình Phật Tử là hơi thở, là đời sống thứ nhất của các anh chị, quan trọng còn hơn cả đời sống gia đình riêng. Gia Đình Phật Tử là điểm khởi hành và cũng là nơi trở về của các anh các chị trong kiếp này. Tuy nhiên đã đến lúc chúng ta nên tạo cơ hội để các thế hệ trẻ được dấn bước trên chặng đường mới của lịch sử Gia Đình chúng ta. Hãy trao cho các em chiếc chìa khóa Bi Trí Dũng và để các em lên đường, đừng trao cho các em gánh nặng quá khứ và nỗi buồn thế hệ mà các anh các chị đang cưu mang.
Chúng ta thường nghe, thường đọc các hiện tượng phân hóa, tranh chấp trong Gia Đình Phật Tử và cả trong cộng động người Việt. Những phân hóa đó, thật ra, không phát xuất từ những nguyên nhân khách quan hay chủ quan to lớn, sâu xa nào cả, nhưng đơn giản chỉ vì chúng ta không biết rõ nhu cầu thực sự của tổ chức và khả năng đáp ứng của mỗi chúng ta trước nhu cầu đó. Nói rộng hơn trong phạm vi đất nước, nếu mỗi người Việt Nam có một tầm nhìn xa về tương lai dân tộc, biết rõ vị trí và khả năng đáp ứng của mình trước nhu cầu đất nước thì cuộc vận hành của lịch sử đã không quanh quẩn trong vòng bế tắc như hiện nay. Chúng ta có khuynh hướng thích làm những công việc cao hơn tầm tay vói, nhận những trách nhiệm không thuộc vào khả năng và tìm cách đứng vào những vị trí không phải dành cho mình. Nước sẽ trở về nguồn. Máu sẽ trở về tim. Lá sẽ rơi về cội. Vâng. Nhưng trước hết máu phải tuần hoàn, nước phải được trôi ra biển và lá phải có cơ hội xanh tươi.
Chúng ta sợ mất truyền thống đã gầy dựng từ 60 năm trước nhưng chính truyền thống cũng phải không ngừng thay đổi và thích ứng với môi trường, nếu không, điều mà chúng ta gọi là truyền thống chỉ là một thói quen lạc hậu mà thôi. Truyền thống tốt đẹp của Gia Đình Phật Tử Việt Nam sẽ không bao giờ chết nếu chúng ta biết cách phát huy. Chúng ta mang cây nhãn Huế sang trồng ở Garden Grove thì xin đừng kỳ vọng nó sẽ lớn lên, sẽ đơm hoa, kết trái, sẽ có hương vị như nhãn Huế. Phật tính là một nhưng căn cơ thì mỗi người mỗi khác. Hạt giống Bồ Đề trong tâm hồn của mỗi chúng ta đều bắt nguồn từ Animisalocana, nơi đó, đức Bổn Sư đã cám ơn cây cổ thụ đã một thời che nắng che mưa, nhưng không phải vì thế mà cây bồ đề ở Berlin, Sydney sẽ lớn lên như hình dáng cây bồ đề một thời ở Animisalocana.
Nếu thời đại Chấn Hưng Phật Giáo 1930 chúng ta có những anh những chị đã đóng vai trò tiên phong mở đường, thì ngày nay, để tiếp tục tồn tại và phát triển trên vùng đất mới, Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại hải ngoại cần có những người anh, người chị trưởng mới, những người huynh trưởng mang tâm thức của thời đại, có khả năng đáp ứng được nhu cầu của thời đại toàn cầu.
Người Huynh Trưởng thời đại, hay nói theo chữ của thầy Từ Lực là Tâm Minh của thế kỷ 21, là những người mang ánh sáng Bi Trí Dũng, phương châm cao đẹp của Gia Đình Phật Tử Việt Nam đi vào lòng người bằng nhiệt tình của tuổi trẻ, phương tiện của thời đại và ngôn ngữ của thế hệ họ. Từ Bi không chỉ đơn giản dừng lại ở sự thương xót, bố thí của cải vật chất nhưng còn là những hiến dâng năng lực tràn đầy của tuổi hai mươi vào các mục đích cao cả nhằm đem lại lợi lạc cho con người mà các bậc đàn anh, đàn chị, bị giới hạn trong tuổi tác, thể lực cạn kiệt, tâm lý mỏi mòn đã không thực hiện được. Giữa một xã hội Tây phương vật lộn, tranh giành, chém giết nhau chỉ vì những cám dỗ thấp hèn, vì những đam mê vọng tưởng, tiếng chuông Từ Bi Thanh Tịnh của đạo Phật chắc chắn sẽ được đón mừng. Các đoàn viên Gia Đình Phật Tử sẽ là những người viết hai chữ tình yêu đích thực vào khoảng trống đang chờ đợi trong tâm hồn những con người vật chất đầy vô vị kia.
Người Huynh Trưởng thời đại như những cánh chim bay cao trên nền trời xanh để ôm nhân loại vào lòng. Tâm hồn tuổi trẻ là một đại dương bao la của lòng vị tha, vô vụ lợi, trong sáng và thánh thiện. Và vì thế, tuổi trẻ sẽ dễ dàng mở mang Trí Tuệ, nhanh chóng đón nhận được các ý nghĩa chân thực trong các lời dạy của đức Từ Phụ. Ánh sáng của Trí Tuệ là ngọn hải đăng dẫn đến Giác Ngộ, tránh xa mê chấp và giải trừ vô minh phiền não. Trí tuệ như một cỗ xe, càng nhẹ, càng ít hành lý bao nhiêu thì càng chạy nhanh hơn. Thế hệ trẻ chắc chắn sẽ nhẹ hơn, sẽ ít hành trang, ít ám ảnh hơn.
Người Huynh Trưởng thời đại, cũng với tinh thần vị tha, trong sáng đó, sẽ thừa Dũng Lực vượt qua mọi thách thức và khó khăn, chắp cánh bay qua những ao tù nước đọng của hoài mặc cảm quá khứ để hướng đến một tương lai khai phóng, bao dung và nhân bản, không những cho Gia Đình Phật Tử, cho thế hệ trẻ mà còn cho cả đất nước, hay nói xa hơn cho nhân loại ngày mai. Họ có thể sẽ sai, có thể sẽ vấp ngã nhiều lần nhưng sẽ can đảm chấp nhận những sai sót, đúng lên và tiếp tục hành trình.
Người Huynh Trưởng thời đại là những người đóng góp hữu hiệu vào nỗ lực làm sáng lên tinh thần Phật Giáo khoa học vượt lên trên tất cả các giới hạn của khoa học. Đạo Phật không phải là nơi trú ẩn của những tâm lý bệnh hoạn, cầu an, cầu phước, tiêu cực, bi quan yếm thế, mê tín dị đoan, xin xăm bói quẻ, nhưng là con đường sống tích cực mà nhân loại đang cần. Đạo Phật là đạo của con người. Đạo Phật đã khẳng định chính con người, chứ không phải ai khác, là trung tâm của thế giới, chính con người, chứ không phải một quyền năng nào khác, là chủ nhân của sinh mệnh con người. Đạo Phật là đạo của thương yêu. Trong suốt dòng lịch sử hơn 2600 năm Phật Giáo, đạo Phật chưa hề làm nhỏ một giọt máu của nhân loại giữa lúc bao cuộc chiến tranh để lại không biết bao nhiêu xương rơi máu đổ vì những sự nhân danh các quyền lực siêu nhiên. Sử gia lỗi lạc của Anh, H. G. Well đã từng biết ơn Phật Giáo qua câu nói: “Phật giáo đã làm sống dậy, làm thanh tịnh hóa, và cũng như đóng một vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn, dìu dắt số phận con người”.
Bởi vì đạo Phật là đạo của tuổi trẻ, là mùa xuân của tư tưởng nhân loại, lý tưởng giáo dục thanh niên của Gia Đình Phật Tử Việt Nam sẽ rất cần cho tuổi trẻ, không chỉ là tuổi trẻ Việt Nam mà cả tuổi trẻ thế giới. Phương pháp để đưa lý tưởng Gia Đình Phật Tử Việt Nam vào tâm hồn các thế hệ trẻ Việt Nam, vào tâm hồn thế hệ trẻ người bản xứ, hẳn nhiên sẽ vô cùng phức tạp và đầy thử thách. Có thể chúng ta phải bắt đầu từ con số rất ít, rất nhỏ và phải cần nhiều năm mới nhìn thấy kết quả. Con đường trước mặt của người huynh trưởng thời đại sẽ gian nan nhưng cũng tràn đầy hy vọng.
Tôi có một ước mơ nho nhỏ. Mai mốt khi trở về, tôi sẽ đi thăm chùa Từ Đàm. Tôi sẽ ngồi trong yên lặng trên thềm chùa, để lắng nghe từ trong lời kinh, từ trong tiếng chuông ngân, từ trong lòng đất, những lời nhắc nhở, những lời dặn dò, những tiếng chân của bao bậc tôn sư và các anh chị trưởng đang vang vọng lại trong tâm hồn tôi. Tương tự, tôi cũng tin sẽ có một ngày, các em, các cháu đoàn viên Gia Đình Phật Tử, vừa mới sinh ra, sẽ sinh ra và lớn lên trên nước Mỹ, Đức, Pháp, Anh, Úc…. cũng sẽ trở về. Các em lại sẽ như tôi, ngồi bên bậc thềm chùa Từ Đàm và nói với nhau bằng tiếng Việt Nam không dấu “Tại đây, chính từ nơi này, một trăm năm trước, hai trăm năm trước, ba trăm năm trước, có những người huynh trưởng Gia Đình Phật Tử Việt Nam với những chiếc áo lam giống như chúng ta và phương châm Bi Trí Dũng giống như chúng ta, đã bắt đầu hành trình đào tạo Thanh, Thiếu, Ðồng Niên trở thành những Phật Tử chân chánh và góp phần vào việc cải tạo xã hội theo tinh thần Phật Giáo, nhờ thế mà có chúng ta.” Và trong số các em, thế nào chẳng có em sẽ khe khẽ hát “Quê hương tôi là đây…”.
___________________________________________
Nhận xét và giáo dục
trong Gia Ðình Phật Tử hiện nay
Nguyên Bảo
Tham luận trong Khóa hội thảo về đường hướng giáo dục của GĐPT (Miền Quảng Đức)
I. Giới hạn vấn đề:
Bàn đến giáo dục, dù là giáo dục học đường hay giáo dục trong cơ cấu tổ chức tôn giáo (tăng lữ, tín đồ, đoàn thể trẻ,…) không thể không nói đến các thành tố bất khả phân sau đây:
1 – Mục đích giáo dục
2 – Ðối tượng gíáo dục & Ðội ngũ giáo dục
3 – Nội dung giáo dục & Phương thức giáo dục.
Riêng với GÐPT, chúng ta thử xem tiêu ngữ nằm lòng này: Mục đích của GÐPT/VN là “đào luyện thanh, thiếu, đồng niên thành người Phật tử chân chính, góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo”, sẽ thấy ngay sứ mệnh giáo dục trong GÐPT bao hàm ba thành tố vừa nêu.
– Mục đích đó là đào dựng những con người Phật tử đúng nghĩa và thăng tiến một xã hội có Phật chất.
– Ðối tượng là lớp người trẻ và cố nhiên phải có người hướng dẫn lớn hơn.
– Nội dung là Phật pháp, kiến thức căn bản về đời sống, kiến thức tổng quát về tổ chức, sinh hoạt, chuyên năng. Và để truyền đạt nội dung này, các phương pháp huấn luyện tu học đã được đề ra.
Nhìn chung, tính từ khi GÐPT/VN hiện hữu, thành tố Mục Ðích không hề thay đổi. Nó như một chân lý vĩnh cửu. Nhưng hai thành tố sau thì thường được nhìn ngắm, suy xét, nghiên cứu, cập nhật hoài để kịp thích nghi với hoàn cảnh nội và ngoại tại.
– Nội tại như: tổ chức lớn mạnh về nhân số, về địa bàn sinh hoạt (ngày nay có thêm quốc nội, hải ngoại),…
– Ngoại tại như: biến tình chính trị, kinh tế, ý hệ tôn giáo, trào lưu tư tưởng, thay đổi văn hóa,…
Mỗi lần cập nhật, tu chỉnh như thế, anh chị chúng ta vẫn theo nguyên tắc khế lý, khế cơ, khế thời.
Hai yếu tố sau như “thường hằng biến động”, luôn được các anh chi em Áo Lam từ hàng “bô lão”, trung niên, tráng niên, thanh thiếu, cho đến đồng niên thường lưu tâm, thảo luận. (Khi một em Oanh Vũ phát biểu: “Ði sinh hoạt Ðoàn vui ghê”, hay “Học Phật Pháp chán quá, v.v” là các em đã có “ý kiến thảo luận” rồi đấy!). Bài viết này chỉ là thu góp và đúc kết các ý kiến từ nhiều nguồn, từ các thao thức, trăn trở của những anh chị em Huynh Trưởng đã và đang cầm đoàn khắp nơi, đã từng bàn thảo, lập đề án và thực hiện ít nhiều. Hy vọng rằng những điều trình bày sẽ giúp chúng ta có cái nhìn đại thể, thấy biết những “ngọn gió bốn phương”, những ngọn gió lành, gió mát, để rồi chúng ta cùng mạnh dạn, hăng say “góp gió”, có thể có những ngọn gió mới lạ, với khát khao, kỳ vọng không nguôi rằng: những gió lành, gió mát đã góp tụ, xin đừng để “qua cầu gió bay”. Nghĩa là chúng ta ai cũng tâm đầu ý hiệp rằng bàn xong phải làm…
II. Vấn đề Ðối tượng Giáo dục và Ðội ngũ Giáo dục trong GÐPT hiện nay:
Yếu tố đối tượng và đội ngũ là yếu tố con người. Con người bị thời gian tác động lên tuổi tác, kinh nghiệm, trí năng, sức khỏe,tâm lý, tính tình. Con người và môi cảnh sống tương tác, tương hệ duyên sinh nhau không ngừng. Nói gọn, con người cấu thành và biến đổi xã hội; ngược lại xã hội cũng ảnh hưởng đến con người. Nhìn vào “Người Phật Tử Việt Nam Hiện Nay”, đa phần đều có caí nhìn quan ngại, lo lắng rằng Phật chất của con người Phật tử và Việt tính của con người Việt Nam đang bị đe dọa xói mòn, bị làm lệch lạc hay bị liên lỉ bứng gốc bởi những ngoại tác khốc liệt của môi cảnh sống và thời đại.
1) Ở trong nước: Xin nêu lại nguyên văn câu nói bi dũng của Huynh Trưởng Nguyên Tín Nguyễn Châu (1998): “Ðất nước chúng ta đã và đang phát triển và đổi mới từ kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhưng bên cạnh đó, hiện tượng trong xã hội cũng đáng quan tâm, như nạn ma túy, nạn mãi dâm, phim ảnh đồi trụy, sách báp nhảm nhí, mê tín dị đoan, đồ chơi trẻ em mang tính bạo động,… đã và đang dần dần xâm nhập vào xã hội Việt Nam, nhất là trong hàng ngũ thanh thiếu niên. Trước thực trạng đó, Huynh Trưởng chúng ta phải có bổn phận và trách nhiệm, lấy công sức và trí tuệ của mình để góp phần giải trừ những tệ nạn đó, vì đó cũng là mục đích thứ hai của GÐPT “góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo”.
Chúng ta không cần phải chờ Huynh Truởng Nguyễn Châu nói rõ là xã hội quê nhà phát triển và đổi mới thế nào, nhưng hiện cảnh những tệ nạn anh liệt kê, dù chưa đủ, cũng cho chúng ta hiểu là xã hội đó trên đà đi lên hay tụt dốc. Không nói hết ra đây, các anh chị em cũng thừa biết xã hội quê nhà đã và đang bị vây bủa trong chính sách giáo điều, độc tôn, lạc hậu; kế hoạch kinh tế chắp vá, bất nhất; đường lối giáo dục chậm tiến, đào tạo lớp người chỉ biết ấm thân với đồng tiền, “job” vững; lại thêm xu thế chạy theo hay rập khuôn xô bồ cách sống phương Tây. Riêng với Phật giáo, do áp lực thế quyền lên giáo quyền, lớp trẻ Phật tử (cố nhiên có GÐPT trong đó) không sao thiết lập được một không gian bồ đề tâm an toàn và tính di động vô trụ xứ của Bồ tát (lời Thầy Tuệ Sỹ). Thảm trạng này trói chặt sinh hoạt của GÐPT, từ đối tượng giáo dục đến đội ngũ giáo dục theo một chủ hướng tiêu cực, không hành hoạt được sức khai phóng năng động và yếu tính bao dung, thu hóa điều cao đẹp trong thực tế cuộc đời và tiến bộ nhân loại.
2) Ở hải ngoại: Nhìn dưới góc độ truyền thống dân tộc, lớp trẻ Phật tử Việt Nam ở hải ngoại đang đứng trước thử thách tự xác định căn cước chính xác (identify) của mình, tự nhận diện mình. Với đất nước nơi đây, họ thuộc cộng đồng thiểu số (minority community). Về nhà, hay đến với đoàn hội, với tổ chức người Việt cao niên, họ thấy lớp trưởng thượng cũng có phần khác họ trong lối sống, từ ăn và mặc, nói và nghĩ, cư xử và làm việc,… Trong lúc họ sống tự tin với sở đắc kiến thức khoa học kỹ thuật tiến bộ, với tinh thần dân chủ, cởi mở, tự lập họ thu nhận đựơc,… thì ngược lại phụ huynh, bậc trưởng thượng lại ưu tư, lo âu về số phận và tương lai của họ trước những cám dỗ vật chất, drugs, sex, bạo lực, aids, HIV, yêu thương bừa bãi và dễ dàng, chung chạ nam nữ trước tuổi trưởng thành, không có đời sống nội tâm sâu sắc và đạo đức đúng mực… Thang giá trị để nhận thức cuộc đời của hai thế hệ đã khác biệt. Sự xung đột (conflict) hay khoảng cách (gap) thế hệ đó không thể bảo rằng không có, thật sự có biểu hiện ngấm ngầm hay bộc phát. Người trẻ xem người lớn là thủ cựu, chậm tiến. Người lớn cho người trẻ là quá đà, nông nổi.
Thử tìm hướng giải quyết: Trước hiện tình lớp trẻ trong ngoài nước như thế, GÐPT/VN, với sứ mệnh và mục đích cao đẹp đã đề ra, phải hành hoạt sao cho có hiệu quả thiết thực; trong nước thì cởi trói hay luồn lách khéo léo khỏi những bủa vây, kềm hãm; ngoài nước thì lấp đầy những hố ngăn cách giữa chênh lệch các thế hệ, giữa dị biệt văn hóa, ngôn ngữ, để đem lại cho những người Phật tử trẻ sức sống trí tuệ, tâm linh và thân mạng lành mạnh, có đủ khả năng, bản lĩnh an lạc và trang nghiêm tự thân vừa an lạc và tịnh độ cho gia đình, xã hội, đất nước. Dù cách trở địa dư, sinh cảnh, nhưng chắc chắn chúng ta ai cũng thầm mong và tin tưởng anh chị em Áo Lam trong, ngoài nước, các châu lục rồi đây sẽ vượt qua được mọi chướng duyên, sẽ hội tụ về một mối chung nhất, “trăm con một nhà”. Dù biểu hiện bên ngoài có nhiều điều “bất khả tư nghì”, “an nhiên tịch tịch”, hay “niêm hoa vi tiếu”, người trẻ phải tin tưởng rằng lớp anh chị cả không chùn chân thoái chí đâu, và hãy nuôi dưỡng ý chí tiến thủ để nối bước lên đường.
Trở về tình hình GÐPT hải ngoại, đặc biệt riêng Hoa Kỳ, những điều gì anh chị em cho là “hot” nhất?
– Phải giải quyết khó khăn, trở ngại cho đại đa số các em nghe, đọc và hiểu tiếng Việt khi tu học. Có nghĩa cần một giáo trình Anh Ngữ và một đội ngũ Huynh Trưởng thạo hai ngôn ngữ lẫn nội dung bài dạy. – Phải hiểu và thông cảm những gì các em được truyền dạy ở học đường Mỹ, để những điều hướng dẫn, dạy dỗ các em đựơc thuận hợp, linh động, gần gũi. Có nghĩa cần tập trung đội ngũ giáo dục từng (đang) là cô thầy giáo, hay từng (đang) học sinh, sinh viên các trường của Hoa Kỳ. – Phải tránh cung cách cư xử ra lệnh, áp đặt, chỉ thị, tuân phục cứng ngắt, quan liêu đối với các em. Có nghĩa đội ngũ giáo dục phải cởi mở, dân chủ, lắng nghe và luôn luôn biểu hiện tình thương chân tình. (Có HT cho đây là lối dạy tâm công, một lối “truyền tâm ấn”, hiệu quả rất cao). – Phải có khả năng giải đáp và thuyết phục các em nhiều vấn đề cả mặt đời lẫn đạo. Có nghĩa đội ngũ giáo dục luôn luôn tự tu, tự học hỏi, tự bồi dưỡng kiến thức nội ngoại điển cơ bản và cần thiết. Tuyển chọn, tập hợp, đào tạo đội ngũ này như thế nào, đó là phần nhiệm của anh chị chuyên năng Giáo Dục và Nghiên Cứu & Huấn Luyện. Nhưng trên hết, tất cả anh chị em Huynh Trưởng trong hay ngoài chuyên năng có khả năng và những điều kiện dự kiến nói trên nên “dấn thân”, “xông xáo” vào cuộc. Tất cả vì các em, vì tiền đồ GÐPT!
III.Vấn đề Nội dung giáo dục và Phương Pháp Giáo dục:
Nội dung giáo dục bao gồm Phật pháp, kiến thức tổng quát về đời sống thường nhật, về tổ chức, kiến thức chuyên môn và sinh hoạt thanh niên.
Trên căn bản, những bài học Phật Pháp được chia, sắp xếp rất sư phạm theo từng lứa tuổi các em Oanh, Thiếu, theo khả năng nhận thức của bậc Kiên – Trì – Ðịnh – Lực. Chương trình này đã được các anh chị trưởng khéo léo canh cải, cập nhật theo hoàn cảnh. Gặp những chướng trở khiến chương trình không áp dụng được đồng nhất, hay không có một thông tư xác nhận chung, các đơn vị GÐPT không vì thế mà ngồi bó tay chờ đợi. Họ đã tự tu soạn, vay mượn bài bản của đơn vị khác, hay vừa vay mượn vừa tăng bổ, sắp xếp cho phù hợp hoàn cảnh. Nhìn chung, giáo trình không sai lệch bao nhiêu, nội dung vẫn đi đúng hướng giáo dục của GÐPT đề ra. Ðiều quan tâm lớn nhất của mọi Lam viên, nhất là đồi với các Huynh Trưởng cầm đoàn là:
– Liệu kiến thức giáo lý có đem lại hiệu quả thực tiển, nghĩa là người học biết rồi hành, nhập rồi ngộ? Nội dung và tinh thần bài học không còn là cái đãy chữ nghĩa, kiến thức mà phải thể hiện một cách tự nhiên, chứ không phải “làm kịch”, trong đời sống hàng ngày, giữa mọi người. Nói rõ là học và tu phải song hành.
– Nếu xong những khóa tu học, sau năm tháng dài mặc Áo Lam, mà trong tổ chức vẫn còn nhiều đoàn sinh có những biểu hiện ngược với tinh thần giáo trình, nhiều em bỏ đoàn đội, đặc biệt ở bậc Thanh, là do nguyên nhân nào? Phải chăng do giáo trình nặng nề, khô đọng, nặng “kinh điển” hơn khuyến tấn thực hành, gần gũi với đời thường, hoặc thiếu thực tế? Phải chăng người giảng huấn giàu nội điển, nhưng không nắm bắt tâm sinh lý người học và những gì họ đang thao thức muốn tìm câu trả lời rành rẽ, cụ thể? Phải chăng phương pháp truyền đạt khô khan, không hấp dẫn, khó lĩnh hội? Phải chăng và phải chăng…
Thử tìm hướng giải quyết:
a) Về nội dung giáo trình:
– Giảm thiểu từ ngữ Hán Việt nếu có thể. Lập giảng khóa song ngữ (Bài thi lên cấp cũng thế).
– Bổ sung thêm các bài học liên hệ trực tiếp những chủ điểm, những vấn đề đang gần gũi, diễn bày quanh các em, trong đòi sống gia đình và xã hội các em đang sống, như:
- Quan niệm đạo đức Phật giáo trước các tệ trạng ma túy, tình dục, phá thai, ly dị, bạo hành, đồng tính luyến ái,…
- Thiền Phật giáo và các pháp hành thiền (có ấn định giờ tĩnh tọa hằng tuần cho các em)
- Phật giáo và hành Thiền đối với chứng Stess (uất cảm), depression (căng thẳng tâm lý).
- Các tôn giáo chính trên thế giới.
- Tổng quan tư tưởng Khổng, Lão và ảnh hưởng trên văn hóa Việt Nam.
- Các tôn giáo và tín ngưỡng chính tại Việt Nam.
- Sự phát triển của Phật giáp tại Mỹ quốc và các nước khác
- Sự liên hệ giữa Phật giáo Nguyên Thủy và Phát Triển (chú trọng Nguyên Thủy, Tiểu Ðại Thừa, Thiền Tông, Mật Tông)
- Phật giáo và các bộ môn khoa học (thiên văn, vật lý, sinh học, sinh thái, y học,…)
- Phật giáo và Tâm lý học, Tâm phân học cận đại.
- Quan điểm Phật giáo về tình yêu (gia đình, bằng hữu, người yêu), về Hôn nhân. (sơ lược nghi thức hôn phối tại Chùa).
- Quan điểm Phật giáo về sinh tử (sơ lược vài nghi thức tang tế Phật giáo và theo truyền thống của các nước Phật giáo và Việt Nam).
- Bồ tát đạo: Ý nghĩa, hành hoạt, công năng (chú trọng dẫn chứng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam).
- Tăng cường chất lượng bài học về vai trò Phật giáo đối với dân tộc (ảnh hưởng lên văn hóa, chính trị,…). Dẫn chứng lịch sử các nước Phật giáo và Việt Nam.
- Tăng cường chất lượng bài học về lịch sử Việt Nam.
- Cập nhật những bài học hay kể chuyện những sự kiện hay chủ điểm có tính thời sự, liên quan chính trị, kinh tế, kiến thức phổ thông,… được soi dọi dưới nhãn quan Phật giáo như: các học thuyết lớn, các chủ nghĩa, các Ðảng chính tại Hoa Kỳ lợi hại của toàn cầu hóa, tổ chức Liên Hiệp Quốc, các tổ chức nhân quyền, nhân đạo, vấn đề cloning, khủng bố và chống khủng bố, v.v…
- Dạy Việt ngữ (chú trọng bài học hay kể chuyện thường xuyên về lịch sử địa dư văn chương, chuyện cổ,… Việt Nam)
Những bài học trên đây đáp ứng:
– Nhu cầu tri thức thiết thực vời đời sống, song hành với kiến thức học đường.
– Giúp nhận ra giá trị vượt bực của tư tưởng Phật đà (“À, té ra mọi mặt đức lý, tâm sinh lý, khoa học, luận lý, Phật giáo đã nói đến và bàn rộng từ… khuya!”) – Giúp các em nhẫn ra và có một quan điểm sống Phật giáo sinh động, luôn thích nghi với thời đại, chứ không khô cứng, lỗi thời, nghiêm nhặt.
– Thao thức chung của cha mẹ, cộng đồng và bản thân các em về văn hóa, lịch sử Việt.
Về việc dạy Việt ngữ, cần hiểu rằng không thể chờ đợi vào khả năng thông thạo đủ Việt ngữ để dạy giáo lý. Nội dung giáo lý là chính, ù cần thiết huân tập cho các em liên tục, dù bằng tiếng nói chữ viết nào, miễn là có hiệu quả. Giải thích cho các em rằng học tiếng Việt ngoài việc bảo tồn văn hóa (ý niệm này mơ hồ đối với các em) còn là để giữ mối dây thông cảm hiểu biết với cha mẹ, anh chị trong nhà, bà con ruột thịt gần gũi. Nói cho các em rõ có nhiều bậc cha mẹ đã phải sống cô quạnh, u buồn, câm lặng (có khi u uất tâm thần) khi con cái chung quanh chỉ còn nghe và nói tiếng Mỹ; nếu thương cha mẹ, các em nên học thông tiếng Việt.
Sống, ăn, học, và cả quốc tịch các em đều Mỹ, dạy dỗ các em văn hóa Việt phải kiên trì, bền chí và khéo léo. Huân tập văn hóa có nhiều cách. Có thể lồng ghép lịch sử nước nhà trong giờ sinh hoạt thanh niên, trong trò chơi hay hoạt cảnh Ðinh Bộ Lĩnh tập trận Cờ Lau, Hai Bà Trưng cởi voi ra trận, Ngô Quyền dàn thủy đội,… Chú trọng tổ chức ngay trong đoàn đội lễ truyền thống Phật giáo và dân tộc như Vu Lan, Trung Thu, chúc thọ mừng tuổi đầu xuân,…
Trong sinh hoạt thanh niên, cần chú trọng các trò chơi có tính thể dục như kéo dây, nhảy bao bố, chạy đua ngắn tầm, đua lò cò một chân, đua nhảy xổm,… Ðừng cho đây là những trò chơi lỗi thời, nhớ rằng đa số gia đình người Việt khi qua Mỹ đều quen ngồi xe hơi, ít hoạt động tay chân.
Các anh chị bậc Lực cần đề ra một giảng khóa chính thức, biểu hiện sự tu học rõ nét (học khóa, học tổ, dự khóa dạy của chư tăng,…) vừa lợi cho bản thân, cho kiến thức Huynh Trưởng lãnh đạo, vừa làm gương “hiếu học, tinh tấn” cho các em dưới noi theo.
b) Về Phương pháp Giáo dục: Lề lối và phương pháp truyền đạt, dạy dỗ của GÐPT/VN trước năm 75 nay đem áp dụng cho các em tại Hoa Kỳ cần nghiên cứu và sửa đổi lại. Ngay những bài về “Tâm Lý Trẻ, Tâm Lý Thanh Thiếu Niên” cũng cần xem lại. Những phát triển các ngành tâm lý học cận đại tại phương Tây cho thấy có nhiều cách giải kiến khác nhau hay bổ túc nhau khi bàn vềà tâm lý, tính tình, thái độ, hành động của người trẻ. Lối dạy cũ cũng cần thích ứng với lớp trẻ tại đây, muốn thấy và biết tận mắt thay vì nghe và trầm tư, suy luận, nghe rồi tranh luận pro – con thay vì chấp nhận và thuộc lòng như vẹt.
Thử tìm hướng giải quyết:
– Áp dụng phương pháp thính thị (audio – visual): dùng biểu đồ, hình ảnh, phim, video, hiện vật, slide, projector,…
– Field trip: thăm viếng, tham quan tận chỗ những nhân vật hay địa điểm liên hệ bài học.
– Tổ chức thường xuyên hội luận, hội thảo trước khi, trong lúc hay sau bài giảng.
– Ra chủ đề sắp dạy cho đoàn sinh soạn trước ở nhà, đến lớp tọa đàm, tranh luận nhau, và giảng viên đứng ra giải quyết, chung kết thành bài học.
– Nghiên cứu lập bài học hay khóa trình hàm thụ cho đoàn sinh vắng mặt hay vì lý do chính đáng không dự học thường xuyên.
– Chia nhóm đoàn sinh nghiên cứu bài học và “đố vui” nhau, có thể cho điểm tập thể nhóm hay quà thưởng tiêu biểu.
IV. Kết luận:
Trên đây chúng tôi chỉ trình bày vài ý chính của những bài tham luận và vài ý kiến riêng thô thiển. Thật ra giáo trình tu học và huấn luyện của GÐPT còn gồm nhiều điểm khác cần bàn sâu hơn như kiến thức chuyên năng, kiến thức tổng quát khác trong ngủ minh, về sinh hoạt thanh niên. Chúng tôi kính mong Chư Tăng Ni, quý Vị thức giả và toàn thể các anh chị em Lam Viên nồng nhiệt và thẳng thắn góp ý, dù là ý trùng lập, nhưng cứ lên tiếng để thấy được số lượng người và số nhận xét nào là tập trung nhất để cấp thiết biến ý kiến thành thực hành. Ở học đường, một năm xong một lớp. Ở đoàn đội chúng ta, một năm qua đi, tuổi đời các em vùn vụt, mà kiến thức và đạo đức giáo dục cứ để đứng dừng hay bước quá chậm, chúng ta nên quan tâm.
___________________________________________
Thân giáo là một giải pháp
cho Tất cả
Tâm Thường Định
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ bi và Trí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài. Thân giáo là bài pháp vô giá và công dụng nhất mà Ngài đã sống và truyền đạt. Thân giáo là lối hành xử trong đời sống hằng ngày. Sự tiến hóa và hòa bình của nhân loại một phần lớn là do giáo lý giác ngộ rốn ráo của Ngài. Ngày nay, Đạo Phật vẫn là những giải pháp cho nhân loại. Sau đây là bảy phương cách như là giải pháp cho Đạo Phật và cho quê hương Việt Nam hôm nay và ngày mai.
- Thiết lập một mindset (tâm/tư duy) thánh thiện: Đầu tiên chúng ta cần có một tư tưởng, một tầm nhìn đúng theo tinh thần Chánh Kiến của nhà Phật. Thánh thiện là những suy nghĩ, lời nói và hành hoạt lợi người lợi mình ngay trong hiện tại và cho cả tương lai. Thầy Thích Minh Đạt, viện chủ Chùa Quang Nghiêm thường dạy: “Một bác sĩ, một nha sĩ mắc lỗi lầm có thể giết chết một người, nhưng một nhà giáo dục mắc lỗi lầm có thể giết chết cả nhiều thế hệ. Mà chúng ta, những Phật tử, đều là những nhà giáo dục vì không sớm thì muộn chúng ta là thầy là cô, là chồng là vợ, là ông là bà v.v… Tuy nhiên, theo những nhà nghiên cứu Hoa Kỳ, tất cả những nhà lãnh đạo giỏi cần có một mindset (lối tư duy) thánh thiện. Nhưng mindset không thôi vẫn chưa có đủ, chúng ta cần phải có một skillset (hành trạng). Mà thêm skillset vẫn chưa đủ chúng ta cần phải có một toolset (công cụ). Ví dụ: Một người Huynh trưởng tốt trong GĐPT cần có một mindset “trên cầu học đạo, dưới dìu dắt đàn em”, xong phải có những hành trạng, kỹ năng chuyên môn, nhưng cũng cần có công cụ, “đồ nghề” để sinh hoạt.
- Thấu rõ nguyên lý Nhân duyên quả: Có thể nói, tất cả những gì chúng ta có hôm nay là do nhân duyên nghiệp của quá khứ và kết quả của tương lai đều tùy thuộc vào những hành động, lời nói, và suy nghĩ của chúng ta ngay hiện tại. Hiểu rõ nguyên lý này giúp ta thiết kế (design) vận mạng và tương lai của chính mình. You’re in control of your destiny (Bạn đang kiểm soát vận mệnh chính mình), nói một cách khác là you are your own creator (bạn là người sáng tạo của cuộc sống riêng mình). Như Phật dạy: “nhân nào quả ấy.”
- Làm tốt bối cảnh địa phương quanh mình trước: Thánh Mahatma Gandhi có nói: “Chúng ta là những thay đổi mà mình hằng mong muốn” Tất cả những thay đổi đều bắt nguồn từ cá nhân rồi đến gia đình sau đó lan rộng đến cộng đồng và xã hội. Ví dụ: Ở đâu cũng vậy, đều có rác hết. Nếu chúng ta ý thức được, thì sẽ tự động dọn dẹp ngay cho được đẹp mắt và bớt hại đến môi sinh. Nói gần hơn, trong nước ta, nhu cầu về tâm linh ngày càng nhiều mà thiếu nhân sự để giúp đỡ đồng bào, nhất là ở những vùng sâu vùng xa. Phật giáo chưa đáp ứng được tại quê nhà (tạm thời chỉ có Tin Lành và Hồi Giáo đang hành hoạt), mà cũng có một số ít Tăng Ni đi hóa duyên ở nước khác trong khi Ngủ Minh Pháp và nhất là Thanh Minh của mình chưa có. Hoằng dương chánh pháp trên xứ người chỉ có thể hiện hữu nếu Tăng Ni thành thạo ngôn ngữ nước đó. Hay nói một cách khác là chúng ta phải có đầy đủ ba yếu tố: Bi-Trí-Dũng (Compassion-Wisdom-Courage) hay theo các thương danh nói là kiến thức, thái độ, và kỹ năng chuyên môn (Knowledge – Attitude – Skill.)
- Đồng Lợi – Lợi người lợi mình (Mutual Respect/Benefit): Tất cả các việc làm đều đặt trên nền tảng từ bi, trí tuệ, dũng mãnh và kiên trì để lợi người lợi mình. Nếu chúng ta ý thức được sự thành công của kẻ khác chính là của mình. Sự đau khổ hay thất bại của kẻ khác là của ta. Thì mình đã tạo được sự cảm thông, đùm bọc và tương thân tương ai lẫn nhau. Đi xa hơn, chúng ta nên ý thức rằng: Lợi ích và quyền lợi của mình là lợi ích và quyền lợi của ta, của tổ chức ta, của giáo hội ta, của đất nước ta. Hay nói một cách khác, nếu tất cả cán bộ các cấp hay nhân sự của các tổ chức đặc quyền lợi chung trên quyền lợi cá nhân thì nơi đó đều được phát triển tốt một cách nhanh chóng.
- Có mặt cho nhau – (Presenting as in the Theory U): Ca dao Việt Nam có câu. “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại thành hòn núi cao” hay là “một cánh én không làm một xuân.” Chúng ta cần phải có mặt và tưới tẩm những hạt giống tốt cho nhau. Hay nói theo Glasl, Lemson và Scharmer trong Lý thuyết U thì mình: 1) Liên kết cụ thể ý thức của trưởng nhóm / lãnh đạo với kết quả công việc của họ. 2. Kế hoạch có hệ thống qua sự quan sát, hiểu biết và đồng thuận ra quyết định của cá nhân và của chung. 3. Đổi mới là không thể thiếu. 4. Hoạch định chính sách (như việc xây dựng các nguyên tắc thiết kế có ý thức cho tổ chức) được kết nối và thích hợp với tầm nhìn đã đồng thuận. 5. Liên hệ để phát triển cá nhân và tổ chức. Nói tóm lại, làm việc và nuôi dưỡng cho nhau là sự cần thiết để thăng hoa. Hay nói theo Michael Fullan trong Sáu Bí quyết Thay đổi thì: 1) thương yêu đùm bọc nhân viên/cấp dưới của mình; 2) kết nối đồng nghiệp với mục đích; 3) xây dựng tiềm năng là ưu thế; 4) học hỏi là công việc; 5) quy tắc chung phải minh bạch và 6) học hỏi từ hệ thống chính mình. Nói chung, chúng ta cần phải làm tròn trọng trách và chức năng của chính mình trong gia đình và trong mọi tổ chức.
- Sức mạnh của đoàn kết (Collaboration with other organizations for sustainable change): Cộng tác với các tổ chức, hội đoàn có tầm nhìn xa và có giá trị cốt lõi thánh thiện để thay đổi cuộc sống của quần sinh. Các cuộc cách mạng lớn đều cần một sự đoàn kết. Sự thay đổi trong đạo Phật cũng vậy, cần sự tương thân tương trợ lẫn nhau. Sức mạnh của tổ chức và networking là cần thiết để tạo ra các thay đổi cho bây giờ và mai sau.
- Hành giả – Be a Buddhist Practitioner: Trong cuộc đời của Đức Phật, bài pháp quý giá và hữu dụng nhất là thân giáo mà chính Ngài đã sống và truyền đạt. Thân giáo hay cách hành xử trong đời sống hằng ngày của Đức Phật là kim chỉ nam trong cuộc sống của chúng ta. Còn kinh luật luận chỉ là phương tiện. Nói rộng ra kinh điển là những gì Đức Phật muốn dạy cho chúng sinh, mà mục đích tối hậu là gì chúng ta đều đã biết. Vậy xin hãy là một hành giả xứng đáng. Như Thầy Thích Đạo Quảng, một vị Tăng tài và trẻ tại hải ngoại có dạy: Mỗi người chúng ta có ba cuộc sống: cuộc sống cá nhân (private life), cuộc sống công cộng (public life), và cuộc sống tâm linh (spiritual life). Khi chúng ta có cuộc sống tâm linh, chúng ta có tất cả cả ba cuộc sống vừa kể. Vậy, chúng ta hãy cùng thực hành sự giáo dưỡng của Đấng từ phụ Thích Ca Mâu Ni bằng thân giáo, khẩu giáo và ý giáo của Ngài.
Kết luận, với sự phát triển kỹ thuật và kinh tế ngày càng nhanh so với phát triển tâm linh. Mỗi người con Phật, dù là xuất gia hay tại gia, trai hay gái, già hay trẻ, trong tổ chức GĐPT hay không đều phải học và thực hành cách chuyển hóa. Sửa chữa những vụng về, những tập khí không tốt để chúng ta từng bước hướng thiện. Ngoài ra, chúng ta cần phải nhiệt thành, làm trọn trách nhiệm và chức năng của mình trong mọi hoàn cảnh được cho phép. Nếu là nhà lãnh đạo uyên bác thì cần phải có Ngũ Minh Pháp trong nhà Phật hoặc bốn loại thông minh ở đời: Mental Intelligence – Physical Intelligence – Emotional Intelligence and Spiritual Intelligence. Thông minh về tâm thần, Thông minh về vật lý, Thông minh về cảm xúc/trí tuệ, và Thông minh về tâm linh.
Nói chung, chúng ta phải “tu thân”. Mà trước khi “tu thân” thì chúng ta phải “thành ý và chánh tâm”, (là thực hành từ bi và trí tuệ) để rồi “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.” vậy. Sau cùng, xin mượn lời khuyên của Thầy Thích Minh Đạt đã cho người viết như là lời cuối cho bài tham luận này.
Muốn trở thành một lãnh đạo tốt, nên cần có ba yếu tố sau:
1. Thành thật với chính mình – không vì tư lợi
2. Thành thật với mọi người – nói sao làm vậy – lời nói đi đôi với việc làm
3. Tha thiết, thành thật trong mọi công việc mà mình đề xuất ra.
Tham Khảo:
Covey, S. (2004). The 8th Habit: From Effectiveness to Greatness. New York: Free Press
Senge, P., et. al. (2005). Presence: Exploring Profound Change in People Organizations, and Society. New York: Currency Doubleday.
Senge, P. et al. (2010), The Necessary Revolution: Working together to create a sustainable world, New York: Broadway Books.
Thích, Đạt M. (2011). Góp Nhặt Lá Rơi. Stockton, CA. Chùa Quang Nghiêm.
Thích, Hạnh N. (2007). The Art of Power. New York: HarperOne.
___________________________________________
LỜI CUỐI SÁCH
(Riêng với tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại Hải Ngoại)
Trong tập sách này, chúng tôi tuyển chọn những bài tham luận nặng tính nhân văn và đức lý của giáo dục Phật giáo, bởi đặc tính này đáp ứng mọi vấn đề căn bản và thiết yếu cho đời sống, không những cho lớp trẻ mà còn cho bất cứ ai tin tưởng vào hiệu dụng của giáo lý Như Lai. Với tổ chức Gia Đình Phật Tử, việc giáo dục nhằm trang bị hành trang vào đời cho thanh thiếu niên với tâm Từ Bi thâm thiết, Trí Tuệ sáng suốt và Dũng Lực thăng tiến, nên ngoài phần truyền dạy giáo lý, phần chuyên năng phong phú cũng được huấn luyện. Có thể, đọc xong tuyển tập này, anh chị Đoàn Sinh hải ngoại sẽ không tìm thấy ở đây các vấn đề mà anh chị đã và đang thao thức như:
– Thiền định Phật Giáo đã trở nên phổ biến trong xã hội Tây phương, được học hỏi, thực hành, nghiên cứu và ứng dụng sâu rộng trong nhiều bộ môn y khoa (tâm lý, não học, tâm thể bệnh học,…), nay người trẻ Phật tử phải nhận thức về Thiền và hành Thiền ra sao?
– Để có nhận định đúng đắn và giải thích hợp lý các sự tích, truyền thuyết, truyện kể trong kinh điển Phật giáo mang tính thần thoại, siêu thực, có nên học thêm căn bản môn Huyền Thoại Học (Mythology), Biểu Tượng Học (Symbolism)?
– Các bài học truyền thống về tâm lý đoàn sinh, lãnh đạo chỉ huy, kỹ năng tổ chức,… có cần cải cách cho thích hợp với tâm sinh lý, nhận thức, tập quán của đoàn sinh trẻ tại hải ngoại?
– Đời sống và xã hội tại hải ngoại phát sinh nhiều vấn đề phức tạp như ly hôn, luyến ái và hôn nhân đồng tính, hôn nhân dị chủng/dị giáo, phá thai, trợ tử, ma túy, bảo vệ môi sinh,… người trẻ Phật tử cần nhận định, ý thức, ứng xử với các vấn đề đó ra sao?
– Trước sự phát triển và sản xuất các phương tiện kỹ thuật tiên tiến như điện toán, iPad, iPhone, SmartPhone,… các môn morse, sémaphore, tìm phương hướng, dấu đi đường, mật thư có cần xét lại, sửa đổi không?
– Môi trường sống tại hải ngoại với sự đa dạng về thiên nhiên, khí tượng, khoa học, y tế, thể dục thể thao,… các bài học truyền thống về mưu sinh thoát hiểm, cấp cứu, bảo vệ sức khỏe, kỹ thuật cắm trại, dựng lều,… có còn thích hợp không?
– Sống trong xã hội đa văn hóa, đa tôn giáo, để tăng cường, sự kính trọng, lòng hòa ái, sự hiểu biết lẫn nhau, GĐPTVN/HN có nên tổ chức sinh hoạt giao lưu tôn giáo (học hỏi tín lý, tìm hiểu nghi lễ, thăm viếng chùa đền, thánh đường) không những với cộng đồng những tông phái Phật giáo (Nguyên Thỉ, Tịnh Độ, Mật Tông, Liên Hoa Tông… của các nước Á-châu) mà cả với cộng đồng tôn giáo khác?
– Để tăng hiệu quả giảng huấn, có cần áp dụng các phương pháp: thính thị (audio-visual), dã ngoại (afield learning), học viên tự nghiên cứu, soạn bài trước và thuyết trình, tranh biện, thảo luận (debate, discussion), thi đua, đố vui để học,…?
– Trước tình trạng thường xuyên phân rã, chia rời cơ cấu tổ chức do những dao động ngoại tại (địa lý, ý hệ chính trị, tông hệ phái giáo hội,…), Gia Đình Phật Tử có tìm ra một quy định trung đạo nào để tổ chức vẫn giữ được đoàn kết và sinh hoạt đồng nhất?
– Trong tổ chức GĐPT, nhiều khi có sự chỉ đạo chuyên đoán, hoặc thiếu sót, tắc trách, phải chăng do tính dân chủ, lối phân quyền, sự thống thuộc chưa rõ ràng, thích hợp, cần được rà soát, truy xét lại?
Trên đây chỉ nêu ra một số trong nhiều ưu tư của anh chị em đang đảm trách đoàn, đội trong GĐPT. Để chuẩn bị chủ đề cho các số Hoa Đàm sắp tới, chúng tôi mong mỏi đón nhận được nhiều bài tham luận của các bậc Tăng nhân, Cư sĩ trưởng thượng, của các anh chị Trưởng dày dạn kinh nghiệm, của anh chị Đoàn sinh trẻ, tất cả là những người luôn thao thức cho sự tồn tại vững chãi và sự tiến triển tốt đẹp của tổ chức GĐPT/VN trong ngoài nước.
Mọi góp ý, xin gởi về địa chỉ email:
hoadamnews@gmail.com
HOA ĐÀM
2 thoughts on “Hoa Đàm: Giáo Dục Tuổi Trẻ Phật Giáo | Hội Thảo Đường Hướng Giáo Dục GĐPT Việt Nam tại Hoa Kỳ”