
* Amos Yong: Khoa Nghiên cứu Kinh thánh và Thần học Đại học Bethel
Trong luận án tiến sĩ của mình cách đây hơn 30 năm tại Đại học Madison, Wisconsin (dưới thời Richard H. Robinson), và được tái bản vào năm 1980 – “Tình thương và sự đồng cảm trong truyền thống Phật giáo Theravada” (Motilal Banarsidass) – Harvey Aronson đã đưa ra những lập luận nhằm phản bác các ý tưởng nổi bật vào thời điểm đó, rằng truyền thống của Theravadin chủ yếu là những phương pháp thực hành khuyến khích việc rút lui khỏi xã hội và không tham gia hoạt động xã hội.
Luận điểm của ông rút ra từ Luật tạng và Kinh Visud-dhimagga (Con đường thanh lọc) của học giả thế kỷ thứ năm, Buddhaghosa, để đưa ra quan điểm bốn thái độ cao siêu của tình thương phổ quát, sự tôn trọng, niềm vui, cảm thông và sự bình đẳng đã được thiết lập để thu hút cả tăng sĩ và cư sĩ với thế giới rộng lớn hơn.
Ở tác phẩm “Thực hành Phật giáo ở phương Tây”, Aronson mở rộng lập luận này trong bối cảnh phương Tây hiện đại hơn là trong bối cảnh Đông Nam Á theo truyền thống Theravadin. Cụ thể, tác phẩm khám phá các phương pháp thực hành cũng như ứng dụng Phật giáo và bối cảnh truyền thống của nó; những liệu pháp tâm lý cũng như sắc thái văn hóa phương Tây hiện đại, nơi mà Phật giáo du nhập và phát triển để xác định cách chúng có thể bổ sung lẫn nhau tốt nhất cho các Phật tử người Tây phương.
Tác phẩm nói trên ra đời, là quá trình trải nghiệm bản thân ít nhất có trên ba mươi năm của Aronson khi thực hành giáo lý Theravadin và thiền Tây Tạng, cũng như khoảng thời gian đào tạo và làm việc của ông trong ngành phân tâm học cũng như tâm lý trị liệu của phương Tây. Đó chính là sự trải nghiệm với những cơn khủng hoảng của chính ông, ngay khi đang thực hành Phật giáo, khiến Aronson đặt ra nghi vấn tại sao thiền phương Đông dường như không hiệu quả đối với căn bệnh này và, liệu ngay cả những gì ngành tâm lý học phương Tây có thể đóng góp vào việc đáp ứng các nhu cầu cá nhân, tâm lý và tinh thần của con người hiện đại? Cho dù có thể thấy thiền Phật giáo càng lúc trở nên phổ biến hơn nhiều trong các xã hội phương Tây. Nói một cách thẳng thắn, liệu có phải chúng ta đã mong đợi quá nhiều vào một truyền thống thiền định được phát triển cách đây 2600 năm về những gì nó có thể cung cấp cho các chứng rối loạn thần kinh và tâm thần trong cuộc sống phương Tây thế kỷ XXI?
Để trả lời toàn bộ câu hỏi này, Aronson khám phá một số ý tưởng liên quan đến phương pháp tâm lý trị liệu và truyền thống Phật giáo để vạch ra những điểm tương đồng và khác biệt của chúng. Ví dụ, lấy ý tưởng về cá nhân, cùng với các khái niệm kết hợp của nó như tính vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân và cái tôi. Người phương Tây, được nuôi dưỡng từ khi còn rất nhỏ để đạt được hoặc thể hiện đầy đủ cá tính của họ, đem đối chiếu và phân tích với các truyền thống “vô ngã” của Phật giáo theo nhiều cách khác nhau. Một số người có thể tiếp thu giáo lý Phật rất hời hợt, điều này làm suy giảm khả năng của họ hầu có được những ứng xử tích cực, và ít vượt qua được những thách thức trên đường công danh sự nghiệp cũng như các vấn đề xã hội trong cuộc sống phương Tây hiện đại. Song, cũng có những người có khuynh hướng, vì tư duy chủ nghĩa cá nhân đã ăn sâu vào thói quen và nhận thức, “sử dụng” các phương pháp Phật giáo cho mục đích “ích kỷ” của riêng họ để tranh thủ mọi lợi ích cho mình trong cuộc sống – là mục tiêu được cho là trái với ý nghĩa của thiền định Phật giáo. Một phản ứng thứ ba có thể là xem các phương pháp thực hành Phật giáo như một phương tiện cá nhân để đối phó, ổn định và tái tạo năng lượng, chỉ để người ta có thể quay trở lại công việc hàng ngày của nơi làm việc (hoặc bất cứ nơi nào) để tham gia vào thực tại đời sống.
Nhiều ý tưởng khác liên quan đến thực hành Phật giáo và liệu pháp tâm lý phương Tây cũng có ý nghĩa rất khác nhau ở phương Đông và phương Tây, những khác biệt có thể tạo ra các biến chứng nếu không được giám sát hoặc dẫn đến các phản ứng và hành động phản tác dụng trong cuộc sống của người phương Tây khi tham gia vào thiền định Phật giáo. Các vị Thầy phương Đông phát triển các kỹ năng duy trì sự quan sát và từ bỏ cơn tức giận, trong khi các nhà trị liệu tâm lý phương Tây tư vấn sự chấp nhận, và thậm chí khuyến khích việc thể hiện sự tức giận. Thiền định Phật giáo làm sáng tỏ sự không dính mắc, trong khi tâm lý học phương Tây nói về các thuật ngữ nhị nguyên của sự tách rời hoặc bám chặt. Chắc chắn đây là những điều khái quát thô thiển, nhưng quan điểm trong cuốn sách của Aronson là vượt ra khỏi những khuôn mẫu này để hướng tới những câu chuyện và thế giới quan giữa hai nền văn hóa phương Đông và phương Tây hiện đại.
Ví dụ, ở phương Đông, trong trường hợp tức giận, cần phải làm rõ về cách thức hoạt động của nó. Trước đây, sự tức giận là phải được quan sát và chuyển hóa vì mục tiêu là loại bỏ ý định có hại và hành động có hại. Với xu hướng phản ứng thay vì cảm xúc, sự tức giận là được thừa nhận, nhưng không được phép bùng phát và phát triển thành hận thù (tạo thành động cơ có ý định gây tổn hại cho người khác). Bối cảnh cơ bản ở đây được nhắc nhở bởi quả báo: tức giận dẫn đến tổn hại, tạo ra nghiệp tiêu cực, nói chính xác là thứ thúc đẩy đau khổ và tạo đau khổ cho thế giới này. Ngược lại, ở phương Tây, chúng ta thường phải đối mặt với việc kìm nén cảm xúc, chôn chặt một cách đau đớn trong bản thân đang trên đà bùng phát. Do đó, trong sơ đồ của Freud về sự vật, tức giận, giống như tình dục, là một hành vi gây hấn bẩm sinh phải được kiểm soát một cách khéo léo, thay vì bỏ qua (gây bất lợi cho cá nhân và cả xã hội). Điều này dẫn đến các hình thức của liệu pháp Gestalt với sự nhấn mạnh vào việc biểu hiện cảm xúc.
Mục tiêu của Aronson là quan sát những khác biệt này để có thể tạo điều kiện tốt hơn cho những người thực hành thiền Phật giáo phương Tây nhận ra các yếu tố văn hóa, mục tiêu và phân tích cặn kẽ điểm gặp gỡ trong cuộc sống của họ. Cuối cùng, ông cho rằng cần có cả hai biện pháp. Đối với câu hỏi làm gì với sự tức giận, chánh niệm Phật giáo và liệu pháp trị liệu bằng phương pháp phương Tây có thể kết hợp để tránh được cả hành động kìm nén và biểu hiện thái quá. Liên quan đến sự bế tắc rõ ràng giữa vô ngã của Phật giáo và bản ngã cá nhân hóa của phương Tây, thiền chánh niệm của Phật giáo cho phép người phương Tây thấy được sự phụ thuộc lẫn nhau của vạn vật, sẽ làm dịu xu hướng chủ nghĩa cá nhân và thói quen cá nhân hóa của họ, trong khi liệu pháp tâm lý phương Tây cung cấp các chiến lược để vượt qua những thách thức đặc biệt của cuộc sống hiện đại ngay cả khi nó làm rõ những giới hạn của những gì thiền định có thể đạt được. Do đó, từ điểm gặp gỡ này, có nghĩa là cả hai quan điểm vẫn quan trọng ngay cả khi có sự thừa nhận rằng cả hai đều có giá trị hạn chế về mặt chỉ giải quyết một số vấn đề chứ không phải là “câu trả lời” toàn diện cho các vấn đề và nhu cầu của người hiện đại.
Các đề xuất của Aronson đã được làm rõ nét nhờ kinh nghiệm thực hành bền bĩ của bản thân ông và mở rộng quan sát cũng như tương tác với các giảng viên Phật giáo Đông lẫn Tây. Ông rất thành thật trong việc thừa nhận rằng các giáo viên Phật giáo đã lớn lên và vẫn còn chìm đắm trong lối sống và lối suy nghĩ của người châu Á có thể không nhạy cảm với các nhu cầu và thách thức của phương Tây, và rằng các thực hành Phật giáo không phải là “phương pháp chữa khỏi tất cả” mà một số quảng cáo phổ biến đã làm cho chúng trở thành hiện thực. Tất nhiên, sự thẳng thắn của ông có thể bị tranh cãi bởi các học viên Phật giáo, những người nghĩ rằng ông đánh giá thấp sự hiểu biết sâu sắc của những vị thầy thực sự được xem là “giác ngộ” hoặc rằng ông tương đối hóa giá trị của thiền định Phật giáo bên ngoài bối cảnh phương Đông. Khi tôi viết lời giới thiệu cho tác phẩm này từ quan điểm của một người ngoài truyền thống Phật giáo, tôi sẽ để những người trả lời là Phật tử giải quyết vấn đề này với Aronson. Tuy nhiên, đối với bản thân là một người Cơ đốc, tôi có động lực áp dụng sự tự hiểu biết về Phật giáo của Aronson theo cách tự phê bình và làm như vậy trong phần nhận xét kết luận của mình, bằng cách nêu ra hai hai hướng trắc nghiệm.
Đầu tiên, Thực hành Phật giáo trên đất phương Tây đặt ra câu hỏi liên quan đến việc cấy ghép các truyền thống tôn giáo và tâm linh từ nơi này sang nơi khác. Bản thân Aronson đặt câu hỏi liệu sự tham gia của phương Tây với Phật giáo có được tiến hành bởi sự đồng hóa các giáo lý Phật giáo vào một khuôn khổ của phương Tây hay không, hay dẫn đến sự biến đổi của chính phương Tây thông qua quá trình người phương Tây học được một điều gì đó mới và điều chỉnh những cách thức quen thuộc của họ, suy nghĩ về những ý tưởng và thực hành mới này. Nói một cách ngắn gọn, Phật giáo đang được biến đổi để phù hợp với nhu cầu và mong muốn của người phương Tây, hay người phương Tây đang bị biến đổi bởi cuộc gặp gỡ của họ với và sau đó là bản thể của Phật giáo? Tất nhiên, có vẻ như cả hai quá trình đều đã và đang xảy ra – đó là, ít nhất là một phần, theo lập luận của Aronson. Tuy nhiên, trên lộ trình, Aronson đã thành công trong việc nhắc nhở chúng ta rằng sự hội nhập của Phật giáo sang phương Tây không bao giờ có thể là một cuộc “chinh phục” (lời của tôi) đối với phương Tây, mà đúng hơn là một sự bỗ túc lẫn nhau, và đặc tính đó, Phật giáo vốn đã có từ đầu.
Các nhà truyền giáo Cơ đốc từ lâu đã tranh luận về mối quan hệ của phúc âm và văn hóa về mặt đồng hóa (phúc âm được văn hóa sử dụng cho các mục đích văn hóa riêng của nó) hoặc nhập thể/ngữ cảnh hóa (phúc âm hoạt động như một chất xúc tác cho sự biến đổi văn hóa); tại sao Cơ đốc giáo đã không thể giải quyết đầy đủ các câu hỏi và mối quan tâm của cuộc sống ở một số khu vực Đông và Nam Á, dẫn đến sự phát triển hạn chế ở những khu vực này, v.v. Nói tóm lại, việc Aronson làm nổi bật nguồn gốc văn hóa, tường thuật và ngữ cảnh của các thực hành thiền định của Phật giáo cũng có thể kêu gọi sự chú ý đến các yếu tố tương tự thông báo sự căng thẳng giữa tính đặc biệt và tính phổ biến vốn có trong mỗi truyền thống tôn giáo trên thế giới.
Nhưng nếu đúng như vậy, thì Phật giáo có phải là “tôn giáo phổ quát” chỉ ở một số khía cạnh nhất định, chứ không phải là “tuyệt đối”? Nói cách khác, có thể có một “tôn giáo phổ quát” theo nghĩa đầy đủ của thuật ngữ này, hay một “vị cứu tinh toàn cầu” theo nghĩa mạnh mẽ nhất của nó không? Aronson gợi ý rằng chúng ta nên công nhận các chuẩn mực văn hóa khác nhau về sức khỏe, sự trưởng thành và lý tưởng hoạt động ở phương Đông và phương Tây, và bằng cách đó, đánh giá cao những gì thực hành Phật giáo thực sự mang lại mà không thất vọng về những gì tôn giáo này không có. Các Phật tử phương Tây truyền thống và hiện đại có thể chấp nhận điều này như một sự trình bày hợp lệ về sự hiểu biết cá nhân của họ không? Cơ đốc nhân hoặc thành viên của các tín ngưỡng khác có thể chấp nhận một phiên bản khác của tuyên bố này để tự hiểu về tôn giáo của họ không?
Câu trả lời cuối cùng cho những loại câu hỏi này không thể được bảo lưu ngoài sự gắn bó chặt chẽ giữa các tôn giáo. Một con đường tiếp theo có thể chính xác là đưa ra câu hỏi so sánh nơi Aronson đã bỏ dở, tức là đặt ra và đánh giá những điểm tương đồng và khác biệt giữa “cách sống thần thánh” được nêu trong Visuddhimagga (Con đường Thanh lọc) của Buddhaghosa là tình yêu, lòng trắc ẩn, và sự khôn ngoan, và, ví dụ, “con đường của Chúa Giê-xu” như được định nghĩa trong các Bài tập của người Inhaxiô về đức tin, hy vọng và tình yêu. Liệu loại dự án so sánh này có thể làm sáng tỏ sự hội tụ giữa một mặt là việc nuôi dưỡng bản sắc cá nhân và mặt khác là nuôi dưỡng lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh không? Trong quá trình này, liệu bản thân các hình thái khác nhau có thể biến đổi hiểu biết của chúng ta về tính phổ quát và tính cá biệt từ các quan niệm thần học và triết học trừu tượng sang các thực hành cụ thể không? Trong chừng mực khi Thực hành Phật giáo trên đất phương Tây đặt ra chính xác những loại câu hỏi này và gợi ý về những khả năng xảy ra như vậy, Harvey Aronson phải được cảm ơn, và, tôi sẽ đề nghị, rất cần thiết đọc nó.
_____________________________________