
C – BẬC TRUNG THIỆN
1. SỰ TÍCH ĐỨC PHẬT DI LẶC
2. SỰ TÍCH NGÀI VĂN THÙ SƯ LỢI
3. SỰ TÍCH CHÙA QUỐC ÂN
4. SỰ TÍCH CHÙA THUYỀN TÔN
5. LÝ NHÂN DUYÊN SINH
6. LÝ NHÂN QUẢ
7. LÝ LUÂN HỒI
8. NĂM GIỚI
9. MƯỜI ĐIỀU THIỆN
10. BỐN ÂN
11. BỐN NHIẾP PHÁP
12. TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ CỦA BẬC ĐẠI NHƠN
13. AN CƯ KIẾT HẠ
14. LỊCH SỬ ĐẠO PHẬT VIỆT NAM TỪ THỜI ĐẠI DU NHẬP ĐẾN ĐỜI LÝ
15. BIẾT NĂM MẨU CHUYỆN ĐẠO
_____________________________
SỰ TÍCH ĐỨC PHẬT DI LẶC
I- THÂN THẾ VÀ Ý NGHĨA TÊN NGÀI
Ngài là người giòng Bà-la-môn ở Nam Thiên Trúc; thân sanh tên là Ba-bà-lợi, họ A-dật-đa, tên là Di Lặc. A-dật-đa nghĩa là Vô năng thắng hạnh tu và lòng từ bi của Ngài không ai sánh kịp. Di Lặc dịch là Từ Thị là vì khi mẹ Ngài chưa thọ thai thì từ tâm rất kém, khi thọ thai Ngài thì phát tâm từ bi. Lại trong một kiếp trước, Ngài làm vị tiên tên là Nhứt Thế Trí Quang, nhờ Đức Phật dạy pháp tu Từ tâm Tam muội, Ngài tu pháp ấy đến khi thành Phật, nên gọi Ngài là Từ Thị.
II- TIỀN THÂN CỦA NGÀI
Trong một tiền kiếp thời Đức Phật Đại Thông Trí Thắng, Ngài cùng Đức Phật Thích Ca đồng thời phát Bồ-đề tâm tu các pháp lành. Đến đời Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng, Ngài cũng xuất gia tu hành, nhưng Ngài có lòng từ bi, lại thiếu hạnh tinh tấn, nên khi Đức Phật Thích Ca thành Phật, Ngài mới lên địa vị Bồ-tát bổ xứ, nghĩa là sẽ thành Phật, trong một đời sau. Ngài được Đức Phật Thích Ca thọ ký sẽ thành Phật Di Lặc sau này tại hội Long Hoa.
III- HẠNH TU, HẠNH NGUYỆN CỦA NGÀI
- Hạnh tu. – Ngài nhờ Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng dạy tu pháp tu Duy Thức mà ngộ nhập được viên thông. Chúng sanh đều chấp trước các pháp, các danh tướng của thế gian là thực có (biến kế), nên bị danh tướng ràng buộc, sự thật các pháp đều y nơi nhân duyên giả hợp mà in tuồng có sanh, có diệt (y tha). Chung quy các pháp không ra ngoài một chơn tánh viên mãn thành tựu (viên thành thật).
- Hạnh nguyện. – Hiện nay Ngài ở trên cõi Đâu Suất nội viện, độ thoát cho vô số chúng sanh. Ngài thường ngồi trên pháp tọa sư tử, thân thể trang nghiêm, trí hạnh đầy đủ. Do lòng từ bi và hạnh nguyện rộng lớn của Ngài, nên những ai sanh lên cõi Đâu Suất nội viện thì không còn thoái đọa; vì tất cả những hiện tượng trên thế giới ấy đều là tiếng thuyết pháp khuyến tu, nhứt là được sự hộ trợ của Ngài. Đến khi nhơn loại sống lâu trên tám vạn tuổi, Ngài mới hiện sanh và thành Phật dưới cây Long
IV- MỘT HÓA THÂN CỦA NGÀI
Một thời kia, sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt, Ngài hiện thân làm một vị Hòa thượng tại đất Minh Châu huyện Phụng Hóa tên là Khê Thử. Mình Ngài rất to lớn, tánh tình hoan hỷ nói năng khác thường ngủ nghỉ không chọn sang hèn. Ngài thường quảy đãy vãi đi khất thực, đem về nuôi trẻ con, và thường làm những việc rất ly kỳ, mắt phàm không thể hiểu được. Người đời thường gọi là Bố Đại Hòa thượng (Vị Hòa thượng mang đãy vải). Trước khi thị tịch. Ngài có di chúc bài kệ:
“Di Lặc thiệt là ta,
Phân thân như hằng sa
Thường hiện làm thường dân,
Mắt phàm không thấy ta”.
Hiện nay, người ta thờ Ngài tại chùa Nhạc Lâm ở Trung Hoa.
V- BIỂU TƯỚNG VÀ LÒNG QUY NGƯỠNG CỦA PHẬT TỬ
Hiện nay các chùa thờ tượng: Đức Phật Thích Ca là Đức Phật hiện tại, ngồi ở giữa, Đức A Di Đà là Đức Phật quá khứ ngồi bên tả Đức Thích Ca, Đức Di Lặc là Đức Phật vị lai, ngồi bên hữu Đức Thích Ca. Tượng Ngài Di Lặc cũng giống như các Đức Phật khác. Có chỗ tạc hình Ngài thân thể to lớn, mặt mày vui vẻ hoan hỷ vô cùng, để thị hiện từ tâm hoan hỷ của Ngài. Lại có sáu đứa con nít leo lên mình chọc Ngài. Ngài vẫn hoan hỷ tự tại, vui vẻ như thường. Sáu đứa con nít là biểu hiện cho sáu thức luôn luôn quấy rầy phá rối Ngài.
Nhưng Ngài đã tu phép quán Duy Thức, cho nên dầu bị quấy rầy Ngài cũng như không, tự tại vui vẻ như thường. Tượng này là phỏng theo sự tích ngài Bố Đại Hòa thượng.
Đức Phật Di Lặc là vị Bồ-tát bổ xứ, sẽ thành Phật trong một kiếp sau. Ngài tượng trưng cho lòng từ, hoan hỷ, cho vui, nên Phật tử luôn luôn tôn thờ.
Niệm hiệu Ngài tức là:
- Niệm hạnh hoan hỷ, luôn luôn vui vẻ tự tại không bị hoàn cảnh xung quanh chi phối.
- Cầu mong Ngài trở về hóa độ và hộ trì cho lòng thành kính của mình.
- Kết duyên với Ngài mong sau này dự vào hội Long Hoa được Ngài giáo hóa.
_____________________________
SỰ TÍCH NGÀI VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT
A- Ý NGHĨA TÊN NGÀI
Văn Thù: Diệu. Sư Lợi: Cát tường, thủ, đức; ý nói trí tuệ của Ngài tối thắng, không chi sánh kịp, không thể ước lượng được.
B- HÀNH TƯỚNG VÀ ĐỊA VỊ NGÀI
- Ngài là vị Phật trợ hóa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nên hiện thân làm vị Tỳ-kheo.
- Ngài thường đứng bên tay trái Đức Phật Thích Ca đối diện với ngài Phổ Hiền, để biểu thị Ngài là bậc Pháp vương tử, là thượng thủ trong chúng hội, và trí huệ là hạnh tối thắng nhứt.
Ngài là biểu thị trí huệ tối thắng cho các hạnh Bồ-tát, khác với ngài Xá-lợi-phất là trí huệ bậc nhứt đối với Thanh-văn thừa, cũng nêu rõ địa vị tối cao của trí huệ trong Đạo Phật.
Ngài là mẹ của các Đức Phật, để nêu căn bản trí huệ là mẹ của các Đức Phật, các Đức Phật thành Phật là nhờ ở trí huệ ấy.
C- BIỂU TƯỚNG CỦA NGÀI
- Trên đầu có năm nhục kế biểu thị năm tướng hay năm đức của Phật.
- Tay mặt Ngài cầm kiếm sắc bén để biểu thị cho trí huệ sắc bén chém đứt các sợi dây phiền não.
- Tay trái Ngài cầm hoa sen xanh để biểu thị:
a- Trí huệ thanh tịnh không nhiễm trước chứng nhập vào chỗ vô tướng.
b- Đầu hoa sen có kim cang ấn để biểu thị trí kim cang uốn dẹp tất cả phiền não. - Ngài cưỡi sư tử xanh, sư tử là chúa của muôn thú mỗi khi gầm thét thời tất cả đều run sợ, trí huệ của Ngài một khi chiếu tỏa ánh sáng, thời màn đen tối của mê mờ bị uốn dẹp tan rã.
- Con sư tử Ngài cưỡi sắc xanh, và hoa sen Ngài cầm cũng sắc xanh, sắc xanh là màu của phương Đông, phương mặt trời mọc; ý nói ánh sáng trí huệ chiếu tan sương mù của đêm tối.
D- TIỀN THÂN CỦA NGÀI
Kinh Pháp Hoa chép: Trước khi Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thành Phật, Ngài là một ông vua có tám người con, sau Ngài xuất gia tu hành chứng quả thành Phật. khi Ngài nhập Niết-bàn, tám người con đều phát tâm xuất gia tôn ngài Bồ-tát Diệu Quang làm thầy và dần dần đều chứng được đạo quả. Người thành Phật sau cùng hiệu là Nhiên Đăng. Như vậy Ngài là thầy của Đức Phật Thích Ca, ngài Bồ-tát Diệu Quang là tiền thân ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát.
Đ- MỘT CÂU CHUYỆN TRỢ HÓA CỦA NGÀI NGÀI VĂN THÙ CẦM KIẾM HẠI ĐỨC PHẬT
Trong thời Đức Phật ra đời, có 500 vị La-hán chứng được Túc mạng thông, thấy tội lỗi tự thân quá nhiều, liền sanh tâm thối thất. Ngài Văn Thù Bồ-tát đứng hầu Đức Phật thấu rõ tâm ý các vị La-hán, liền cầm kiếm sấn đến trước như muốn nghịch hại Phật. Đức Phật thản nhiên nói rằng: “Ta đã chứng vô ngã vô pháp, không còn thấy Ta bị sát, không thấy có người đến sát hại, làm sao người sát hại Ta được”. 500 vị La-hán hiểu ngay sự giả dối của pháp, sự không thật của tội ác chứng được Vô sanh Pháp nhẫn.
E- LÒNG QUY NGƯỠNG CỦA PHẬT TỬ VÀ KẾT LUẬN
- Tưởng nhớ đến trí huệ cùng tột của Ngài.
- Cầu sự hộ trì của Ngài cho trí huệ được minh mẫn sáng suốt.
- Tự nhận hiểu trí huệ là món tư lương cần thiết nhứt của người Phật tử trên con đường đạo.
- Trí huệ của ngài Văn Thù tượng trưng là mẹ của Đức Phật.
- Đạo Phật là đạo của trí huệ, chỉ có trí huệ mới uốn dẹp tất cả phiền não mê lầm.
_____________________________
LỊCH SỬ CHÙA QUỐC ÂN
I. VỊ TRÍ GIỚI HẠN
Chùa Quốc Ân thuộc làng Trường Cửu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, cách thành phố chừng ba bốn cây số. Chùa dựng trên một khoảng đất cao, hướng mặt về phía Tây đối chiếu với núi Kim Phụng, phía trái tiếp giáp với núi Ngự Bình, và phía phải kế cận với bãi đất Ba Đồn chỗ chôn rất nhiều mồ mả. Phía trước là con đường ăn thông về núi Ngự Bình. Phía sau tiếp giáp với những bãi đất hoang và xa hơn nữa là đường thông về An Cựu.
II. CẢNH TRÍ
Vào chùa phải đi ngang qua bốn cột trụ lớn, qua khỏi cửa chùa là cả một cái sân rộng. Tục truyền, chỗ sân ấy là chỗ dựng ngọn tháp Phổ Đồng của ngài Nguyên Thiều; nhưng sau bị quân Tây Sơn phá hủy (khoảng 1528-1802) nên bây giờ chỉ còn đám đất không. Chùa Quốc Ân xây kiểu chữ khẩu, theo kiến trúc xưa của người Trung Hoa, ở giữa là một cái sân nhỏ, xung quanh bốn gian nhà tiếp giáp nhau, gian trước là chánh điện thờ Phật, các vị Bồ-tát, cùng các vị Tổ khai sơn. Hai bên có hai liêu lớn là chỗ ở của vị Trụ trì và Tăng chúng. Gian bên phải là nhà Thiền, gian bên trái là nhà khách, và gian sau là nơi thờ các vị Tổ truyền thừa, cùng bổn chúng Tăng già và bổn đạo trong chùa.
III. CÁCH THỜ TỰ TRONG CHÙA
Chánh điện ba căn chia làm hai phần: Mặt trước thờ Phật và các vị Bồ-tát. Mặt sau thờ các vị Tổ sư và bổn chúng Tăng quá cố. Cách bài trí đại khái như sau: Mặt trước gian giữa và trên hết, thờ Đức Phật Thích Ca (ngồi giữa) Đức Phật A Di Đà (ngồi bên tay trái Đức Phật Thích Ca) Đức Phật Di Lặc (ngồi bên tay phải). Tầng thứ hai ở giữa thờ Đức Phật Thích Ca thuyết pháp, bên hữu thờ tượng Bồ-tát Phổ Hiền, bên tả thờ tượng Bồ-tát Văn Thù. Tầng thứ ba thờ tượng Bồ- tát Địa Tạng và ngoài hết là bàn Kinh.
Căn bên trái đứng trong nhìn ra, thờ Ngài Đạt Ma Tổ sư, căn bên phải thờ Đức Quan Thánh. Hai dãy thờ đối chiếu 10 vị Thập Điện, tiếp theo đó về bên trái thờ thập loại cô hồn và hai bên thờ ngài Giám Trai. Mặt sau cùng, căn chánh thờ vị Tổ khai sơn: Ngài Nguyên Thiều. Kế cận theo đó là bài vị các vị Tổ truyền thừa. Căn bên phải thờ bổn chúng Tăng và bên trái thờ các nhà thí chủ quá cố.
IV. LỊCH SỬ
Chùa Quốc Ân dựng lên từ đời vua Lê Huyền Tôn, niên hiệu Cảnh Trị năm thứ ba (tức năm Ất Tỵ, thứ 17 chúa Nguyễn Phúc Tần, 1665 sau Tây lịch) do ngài Thọ Tôn Hòa thượng húy Nguyên Thiều khai sáng. Lần đầu mới sang Việt Nam, Ngài ghé tại phủ Quy Ninh (Bình Định) lập chùa Thập Tháp Di Đà để làm nơi căn cứ tu hành và truyền giáo. Sau ra Thuận Hóa lập chùa Hà Trung thuộc huyện Phú Lộc bây giờ. Rồi trải qua một khoảng thời gian cũng 10 năm. Ngài lại rời chùa Hà Trung lên kinh đô Huế tạo chùa Quốc Ân và dựng tháp Phổ Đồng (tháp này sau bị quân Tây Sơn phá). Đến năm Bảo Thái thứ 10, tháng 10 ngày 19, Ngài viên tịch. Hiện nay tháp Ngài dựng ở một ngôi đồi nhỏ trong địa hạt Thuận Hóa, làng Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thủy, và lấy hiệu tháp là Hóa Môn. Vua Hiển Tôn Hoàng đế có ban thụy hiệu Ngài là HẠNH ĐOAN THIỀN SƯ. Rồi từ đấy, sự truyền thừa vẫn nối tiếp từ đời này qua đời khác, cho đến đời ngài Đắc Quang, năm 1931 Ngài đứng lên trùng tu ngôi chùa ấy (năm Giáp Thân). Từ ngài Nguyên Thiều đến ngài Đắc Quang, tính lại đã được tám đời tất cả.
Ngài Tăng cang Đắc Quang ngoài công hạnh lớn trên, lại còn là một vị tu hành danh đức. Ngài viên tịch vào ngày mồng 2 tháng Giêng (năm Nhâm Tuất 1945). Tháp Ngài hiện nay dựng ở cạnh chùa về phía tay phải.
_____________________________
LỊCH SỬ CHÙA THUYỀN TÔN
I. VỊ TRÍ GIỚI HẠN
Chùa Thuyền Tôn thuộc xóm Ngũ Tây, làng An Cựu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, cách thành phố Huế chừng 6, 7 cây số. Chùa dựng trên một ngọn đồi cao, hướng mặt về phía Tây Bắc, bên phải giáp núi Thiên Thai, bên trái tiếp giáp những ngọn đồi con và sau lưng sát với đầu ngọn núi.
II. CẢNH TRÍ
Chùa Thuyền Tôn không có cửa Tam quan, muốn vào chùa phải đi quanh co theo những thoải đồi con, và khi đến chùa chỉ cần leo những bậc cấp nhỏ. Tiếp đấy là cái sân rộng, trồng đủ các thứ hoa. Chùa xây theo kiểu chữ Khẩu ba căn, hai chái, sau lưng là nhà hậu.
III. CÁCH THỜ TỰ TRONG CHÙA
Chánh điện ba căn, phân làm hai: mặt trước thờ Phật và các vị Bồ-tát, mặt sau thờ các vị Tổ sư cùng Tăng chúng quá cố. Cách bài trí đại khái như sau: mặt trước căn giữa và cao hơn hết là thờ ba vị Tam thế: Đức Thích Ca Mâu Ni (ngồi giữa) Đức A Di Đà (bên tay trái), Đức Phật Di Lặc (bên tay phải). Tầng thứ hai thờ riêng Đức Phật Thích Ca. Tầng thứ ba, bên phải vẽ tượng ngài Văn Thù ngồi trên con sư tử xanh, bên trái là tượng ngài Phổ Hiền ngồi trên con voi trắng.
Căn bên tay phải (ở trong nhìn ra) thờ tượng đức Quán Thế Âm, căn bên trái thờ tượng ngài Địa Tạng, tiếp đó hai bên thờ đối chiếu 10 vị Thập Điện và tượng Thánh Quan cùng tượng Đế Thích. Căn giữa chánh điện, có treo bức biển đề mấy chữ “Thiên Thai Thuyền Tôn Tự” bên cạnh có giòng chữ nhỏ: Cảnh Hưng bát niên (Cảnh Hưng năm thứ tám).
Phía sau cùng căn giữa thờ long vị ngài Liễu Quán, vị Tổ sư khai sơn chùa Thuyền Tôn cùng các vị Tổ thừa kế. Bàn bên phải thờ các vị Trụ trì và bên trái thờ bổn chúng. Ngoài nơi thờ tự ra, gian bên phải là liêu chúng Tăng ở và gian bên trái là tịnh liêu của ngài Hòa thượng.
IV. LỊCH SỬ
Chùa Thuyền Tôn do ngài Liễu Quán Hòa thượng khai sơn. Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, người làng Bạc Mãi, huyện Đạo Xuân, tỉnh Phú Yên (Sông Cầu). Hiện nay không biết chùa dựng lên từ năm nào, chỉ thấy bức biểu chùa và đại hồng chung có đề Cảnh Hưng năm thứ 8- Nhưng xét ra năm ấy không phải là năm bắt đầu dựng chùa Thuyền Tôn, có lẽ là đầu khoảng năm Vĩnh Thịnh thứ tư (Lê Dục Tông 1708). Sau khi Ngài ra Long Sơn (Từ Đàm, Huế) cầu Hòa thượng Tử Dung ấn chứng rồi mới lập chùa này. Lúc bấy giờ, chùa chỉ mới là một chiếc am tranh, vừa để Ngài ẩn náu tu hành. Rồi từ đấy về sau, dần dần mới trở nên một ngôi chùa đồ sộ và có lẽ đại hồng chung cùng biểu sắc tứ mới có vào lúc này. Vả lại, ngài Liễu Quán Hòa thượng đã viên tịch vào năm Cảnh Hưng thứ ba (1742). Như vậy chùa Thuyền Tôn không phải mới làm từ năm Cảnh Hưng thứ tư.
Chùa Thuyền Tôn là một ngôi Tổ đình lớn ở Thừa Thiên mà cũng là nơi căn nguyên của phái Liễu Quán. Phái Liễu Quán này, một nhánh của phái Lâm Tế, hiện nay Tăng đồ, tín đồ từ Trung đến Nam Trung Việt phần nhiều đều thuộc về phái Lâm Tế. Lại ngài Liễu Quán là một vị danh Tăng Việt Nam đầu tiên ở Trung Việt được thừa truyền Tổ đạo. Cho nên ngôi chùa Thuyền Tôn cũng là nơi đánh dấu ảnh hưởng sự nghiệp tốt đẹp của người Việt Nam trong sự nghiệp truyền giáo.
Đến năm Quý Mùi (1943) vì ngôi chùa lâu ngày bị đổ nát nên Giáo hội Tăng già Thừa Thiên có đứng ra kêu gọi trùng tu lại ngôi Tổ đình này, và từ đó ngôi chùa Thuyền Tôn lại được nguy nga tráng lệ như xưa. Hiện nay ngài Hòa thượng Giác Nhiên là tọa chủ.
_____________________________
LÝ NHÂN DUYÊN SINH
I. ĐỊNH NGHĨA
Nhân là những món có năng lực phát sinh; Duyên là những món bổ trợ giúp nhân phát sinh. Nhân duyên là một định lý nêu rõ mọi sự vật ở đời đều do các nhân duyên hòa hợp mà hình thành phát sinh.
II. VÍ DỤ
Như cái bàn do gỗ làm nhân và công thợ đinh đóng ghép làm duyên hòa hợp thành cái bàn. Như cây lúa do hột lúa làm nhân và công cày bừa gieo tưới làm duyên, hòa hợp thành cây lúa.
III. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA LÝ NHÂN DUYÊN SINH
- Lý nhân duyên sinh là một định lý hiện thật nêu rõ sự hình thành phát sinh các pháp là do các nhân duyên hòa hợp. Định lý này Đức Phật căn cứ trên cảnh thực tại để thuyết minh trình bày.
- Lý nhân duyên sinh chi phối tất cả. Tất cả sự vật sai khác đều do các nhân duyên hòa hợp hình thành phát sinh; lý nhân duyên sinh chi phối tất cả, không một vật gì có thể thoát khỏi sự chi phối của lý này.
IV. SỰ ỨNG DỤNG LÝ NHÂN DUYÊN SINH
Nếu chúng ta đã hiểu lý nhân duyên sinh, chúng ta sẽ có được nhiều sự ứng dụng rất thiết thực.
- Lý nhân duyên sinh cho chúng ta rõ chỉ có các nhân duyên, chớ không thấy thật có một sự vật nào, mà có nhân duyên kia cũng chỉ là sự vật, cũng chỉ vì nhân duyên hòa hợp mà thành, chớ cũng không thật.
- Lý nhân duyên sinh nêu rõ sự tương quan của các pháp, các pháp hình thành toàn nhờ sự tương quan, tương duyên giữa các pháp. Trong các nhân duyên hội hợp hình thành một pháp, nếu có một nhân hay một duyên thay đổi thời pháp ấy cũng thay đổi.
- Lý nhân duyên sinh cho chúng ta rõ mọi vật đều do nhân duyên giả dối hợp thành, chớ không phải tự nhiên mà có, và cũng không phải do một vị Thượng đế sáng tạo
- Lý nhân duyên cho chúng ta rõ chúng ta tự chủ đời chúng ta, tương lai nằm trong tay chúng ta, bởi vì đời chúng ta đẹp hay xấu, thiện hay ác, hoàn toàn do những nhân duyên chúng ta tự tạo tác.
V. KẾT LUẬN
Lý nhân duyên sinh cho chúng ta rõ mọi vật chỉ là hình thành của các nhân duyên hòa hợp và nhờ vậy chúng ta hiểu được sự vật là như huyễn không chắc thật, một khi đã hiểu được các pháp; trái lại có thể xây dựng an lạc hạnh phúc cho mình, cho mọi loài được sống tự tại và giải thoát.
Người lấy trộm của người bị hai quả báo : một là nghèo hèn, cơm áo thiếu thốn; hai là thường bị các nạn giặc nước, lửa, hình phạt cướp đoạt.
KINH TĂNG NHỨT A HÀM
LÝ NHÂN QUẢ
I- ĐỊNH NGHĨA CHỮ NHÂN QUẢ
Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả. Nhân là năng lực phát động, quả là sự hình thành của năng lực phát động ấy. Nhân quả là một định luật tất nhiên, nêu rõ sự tương quan tương duyên giữa nhân và quả: phàm đã có nguyên nhân tác động, tất nhiên có kết quả hình thành, phản ứng nguyên nhân ấy. Ví dụ: Có học thì biết chữ, đánh trống thì có tiếng vang dội. Như vậy, chúng ta biết rằng tất cả sự vật hiện tại đều là kết quả trực tiếp hoặc gián tiếp của nghiệp nhân, không phải có ai sanh, cũng không phải tự nhiên sanh.
II- NHỮNG ĐĂC ĐIỂM VỀ LÝ NHÂN QUẢ
1- Nhân quả là định luật hiện thực: Đức Phật không phải là người sáng chế đạo lý nhân quả. Ngài chỉ là người đã giác ngộ sự tương quan, tương duyên giữa nguyên nhân và kết quả của sự vật. Đức Phật căn cứ trên hiện cảnh thực tại để thuyết nhân quả cho chúng ta hiểu.
2- Nhân quả chi phối tất cả: Tất cả sự vật, tất cả các sự hưởng thọ dù có sai khác chênh lệch nhau, nhưng cũng đều là sự hình thành sai biệt của nghiệp nhân bất đồng. Bởi thế, định luật nhân quả chi phối tất cả sự vật, không ai có thể phủ nhận đạo lý nhân quả, nếu muốn hiểu biết đúng với sự thật.
3- Nhân quả là một định luật rất phức tạp: Lý nhân quả không phải giản dị như chúng ta thường hiểu. Sự liên lạc, tương quan, tương duyên, tương phản giữa nhân và quả, nhiều khi làm đạo lý nhân quả trở thành phức tạp khó nhận. Cũng bởi thế, những người trí thức nông nổi tầm thường, khó nhận thức đúng với sự thật, với đạo lý nhân quả được.
III- SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA NHÂN VÀ QUẢ
Đức Phật dùng đạo lý nhân quả để giải thích trình bày sự tương quan, tương duyên giữa nhân và quả. Sự tương quan ấy rất mật thiết, nhưng cũng rất phức tạp khó nhận.
1- Một nhân không thể sanh ra quả: Sự vật giữa vũ trụ đều là tổ hợp của nhiều nhân duyên. Cho nên không có một nhân nào có thể tự tác thành kết quả được, nếu không có sự giúp đỡ của nhiều nhân khác. Ví dụ cây lúa không những chỉ do hạt lúa tạo thành mà cần phải có các nhân khác giúp vào hạt lúa mới nảy mầm thành cây và cây phát triển tồn tại.
2- Nhân nào quả ấy, mảy mún không sai: Nhân thế nào thì kết quả cũng như vậy, chứ không bao giờ nhân quả tương phản, mâu thuẫn nhau. Người học đàn chỉ biết đàn, chứ không thể biết vẽ, người làm việc lợi ích thì bao giờ cũng được kết quả tốt, chứ không thể có kết quả xấu.
3- Trong nhân có quả, trong quả có nhân: Chính trong nhân hiện tại chúng ta thấy quả vị lai và chính trong quả hiện tại, chúng ta đã tìm được nhân của quá khứ. Ngay trong sự hưởng thọ của kiếp người, chúng ta thấy rằng, sở dĩ hiện tại chịu mọi điều thống khổ là vì nghiệp nhân bất thiện của chúng ta đã tạo. Ngược lại, chúng ta có: nếu hành động hiện tại là tốt đẹp, tất nhiên kết quả tương lai sẽ tươi sáng. Trong người Phật tử chơn chánh hiện tại, chúng ta có thể thấy rõ rằng nguyên nhân tốt đẹp của người ấy đã gieo ở thời quá khứ và cũng thấy rõ quả báo tốt đẹp của người ấy sẽ được hưởng thọ ở đời vị lai.
4- Nhân có năng lực tạo thành hình tướng: Có vôi gạch đất đá và nhân công hợp lại thì thành cái nhà, nếu những dụng cụ ấy rã rời, ly gián hay biến hoại thì hình tướng của cái nhà không còn.
IV- SỰ LIÊN LẠC GIỮA NHÂN QUẢ QUA THỜI GIAN
a- Nhân quả một thời: Nhân quả nối liền nhau vừa tạo nhân, quả liền phát khởi. Như đánh chuông liền nghe tiếng. Quả theo liền với nhân, chứ không cần chờ đợi một thời gian quả mới thuần thục.
b- Nhân quả trong hiện tại: Tạo nhân đời này thì kết quả cũng trong đời này, như trồng lúa thì chừng sáu tháng đã có lúa, không cần phải đợi một thời gian lâu xa.
c- Nhân quả có hai đời: Nhân tạo đời trước, đời này mới kết quả. Nhân tạo đời này đến đời sau mới kết quả, nghĩa là cần đợi một thời gian khá lâu, quả mới thuần thục.
d- Nhân quả trong nhiều đời: Nhân tạo từ các đời trước đến đời này mới kết quả. Nhân tạo trong đời này, đến các đời sau mới kết quả.
V- NHỮNG VÍ DỤ VỀ LÝ NHÂN QUẢ
Nhân quả là một sự thật, một định luật tất nhiên của sự vật vì thế không có sự vật nào thoát ngoài sự chi phối của định lý nhân quả.
1. Nhân quả hiện nơi hiện cảnh: Núi rừng là kết quả của nhiều cây hợp lại, cây được sinh tồn phát triển là nhờ sự nuôi dưỡng của các thứ hóa chất, thán khí, sinh tố v.v… Nắng lâu ngày thì đại hạn, mưa nhiều thì cây cối tàn hại, nạn nước dâng trào.
2- Nhân quả nơi tự thân: Thân thể là nơi kết hợp của các tế bào, bốn đại và năm uẩn; người béo tốt là bởi sinh lực dồi dào, huyết quản lưu thông và sống hợp vệ sinh điều độ.
3- Nhân quả tự nơi tâm: Tánh tình tư tưởng và trí thức con người cũng chịu sự điều khiển chi phối của định lý nhân quả. Làm điều độc ác thì trí tưởng thấp hèn, nghĩ điều lành thì tánh tình thuần thục, học nhiều nhớ rộng thì kiến thức mở mang, thông thái uyên bác.
VI- SỰ ỨNG DỤNG LÝ NHÂN QUẢ
Nếu chúng ta có hiểu định lý nhân quả và cố gắng thực hành thì có rất nhiều sự lợi ích:
1- Lý nhân quả làm cho chúng ta thấy sự thật: Trong lý nhân quả, Đức Phật đã giải thích rõ ràng sự tương quan giữa nhân và quả, nghĩa là sự liên lạc mật thiết giữa vũ trụ vạn hữu. Nhờ vậy chúng ta có thể hiểu thấu thực trạng của sự vật, như sự thật mà hiểu biết, chứ không vọng tưởng sai lầm.
2- Căn cứ định lý nhân quả, Đạo Phật không chấp thuận thuyết vũ trụ do một đấng Thượng đế sanh ra và có uy quyền thưởng phạt muôn loài.
3- Người hiểu nhân quả đặt lòng tin tưởng ở chính mình: Đã biết cuộc đời của mình do nghiệp nhân của chính mình tác thành, như thế thì tự mình là chúa tể và có đặc quyền cải tạo đời sống của mình hiện tại, trở thành trong đẹp thanh cao.
4- Người tin lý nhân quả không chán nản, không trách móc: Đã rõ tất cả hoàn cảnh hưởng thọ đều do chính mình tác động, người hiểu nhân quả, dù gặp thất bại, nghịch cảnh cũng không chán nản trách móc ai. Chỉ lo tự mình cải tạo lấy nghiệp nhân bất thiện, để được hưởng kết quả chơn chánh thanh tịnh mà thôi.
5- Người hiểu biết nhân quả chỉ lo tạo nhân lành và bất cứ làm một việc gì cũng nghĩ đến kết quả trước: Đã hiểu những sự hưởng thọ hiện tại đều do nghiệp nhân quá khứ tác động, nếu muốn được kết quả tốt đẹp, cần phải siêng tạo những nghiệp nhân thuần lương, và trong lúc tạo nhân lại cần nghĩ những kết quả sẽ thành tựu, có tốt đẹp không, mới chịu làm.
VII- KẾT LUẬN
Lý nhân quả là một định lý tất nhiên: Chi phối tất cả sự và lý ấy cho chúng ta thấy rõ rằng mọi sự hưởng thọ dù tốt đẹp hay xấu xa của kiếp người hiện tại cũng là sự trình bày khách quan của nghiệp nhân ở quá khứ. Cho nên con người là đấng chúa tể, con người tự định đoạt, tự tác thành đời sống của mình chứ không ai có quyền can thiệp thưởng phạt. Định lý nhân quả của Đạo Phật đem lại cho chúng ta một đức tính mạnh mẽ sáng suốt, và mở rộng chân trời giải thoát giác ngộ cho mọi loài chúng sanh.
_____________________________
LÝ LUÂN HỒI
I- LỜI NÓI ĐẦU
Con người do ai sanh ra? Sanh ra rồi để làm gì và sẽ đi đâu? Ba câu hỏi này làm nhơn loại luôn luôn thắc mắc băn khoăn. Và tất cả tôn giáo triết học chủ nghĩa từ trước đến nay cũng đã tìm tòi trình bày rất nhiều giải đáp. Nhưng hiện tại, con người vẫn chưa được thấy thỏa mãn, và vấn đề nhân sanh quan vẫn còn đè nặng trên trí óc con người. Với đạo lý luân hồi, Đạo Phật đã trả lời những câu hỏi trên, và chúng ta sẽ thấy rõ địa vị con người trong Đạo Phật như thế nào.
II- NHỮNG SỰ HIỂU LẦM VỀ NHƠN SANH
Vấn đề nhơn sanh quan có rất nhiều giải đáp không giống nhau của các tôn giáo triết học và chủ nghĩa. Những lời giải đáp ấy không ra ngoài bốn món kiến chấp sau đây:
a- Chấp đoạn: Con người chỉ có với hiện tại, trong khoảng mấy mươi năm sống, đến khi chết thân thể tan ra tro bụi, kiến văn giác tri không còn, chết rồi thì mất hẳn. Nhưng chúng ta thấy ở đời này, không có vật gì là mất hẳn. Cho đến một hột cát, một mảy lông cũng không thể mất hẳn, huống nữa là cái thân hay biết nơi một con người.
b- Chấp thường: Có người cho rằng, sau khi chúng ta chết tuy thân thể tiêu tan; nhưng vẫn có một linh hồn bất tử, linh hồn ấy sẽ được lên cõi thiên đường luôn luôn hưởng những sự an vui khoái lạc (nếu trồng nhân lành hiện tại), hay sẽ bị đọa vào cõi địa ngục chịu khổ mãi mãi (nếu tạo các nhân ác). Chúng ta thử hỏi linh hồn bất tử có cảm giác như con người sống, và có thân thể hay không thân thể? Nếu đã có thân thời như người sống rồi, sao gọi là chết? Nếu không có thân thì biết lấy gì để cảm xúc với ngoại cảnh để biết đau buồn vui sướng? Lại nhân có hạn lượng thì quả phải có hạn lượng, lẽ đâu lại có những điều bất công như vậy. Hơn nữa với sự nhận xét thông thường chúng ta thấy rằng mọi vật đều biến đổi xê dịch, nào có cái gì trường tồn, không sanh không diệt đâu?
c- Chấp thân trước không can hệ đến thân sau: Có người cho rằng dầu thân này chết sanh ra thân sau, nhưng thân sau ấy không liên can gì với thân trước. Nhưng thân sau ấy vẫn là mình nghĩa là vẫn tự chấp có cái là biết vui buồn đau khổ, sao lại không liên can? Lại một thân sanh ra đâu phải không chịu những ảnh hưởng của những nghiệp nhân tạo từ nhiều đời, thời sao lại không liên can được.
d- Chấp luân hồi theo luật tiến hóa: Có người công nhận rằng: Sự vật đều có luân hồi theo luật tiến hóa, nghĩa là loài thực vật có thể luân hồi thành loài hạ đẳng động vật, loài hạ đẳng động vật luân hồi thành loài cao đẳng động vật. Như loài khỉ có thể tiến hóa, nhưng cũng có thoái hóa rõ ràng vậy bằng chứng vào đâu mà nói rằng nhứt định chỉ có tiến hóa.
III- NGHĨA CHỮ LUÂN HỒI TRONG ĐẠO PHẬT VÀ MỤC ĐÍCH ĐẠO PHẬT
a- Các cõi trong Đạo Phật: Đạo Phật có chia ra các cõi, các loại ra làm sáu cõi phàm và bốn bậc Thánh. Sáu cõi phàm là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thiên, nhơn, A-tu-la. Bốn bậc Thánh là Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát và Phật.
b- Định nghĩa: Luân là bánh xe. Hồi là quay tròn; con người sống rồi chết, chết rồi đầu thai vào một trong sáu cõi phàm, rồi lại sống, để rồi chết và cũng đầu thai một trong sáu cõi phàm ấy; luôn luôn như vậy không bao giờ ra khỏi, không bao giờ dừng nghỉ như chiếc bánh xe chạy tròn không dừng.
c- Mục đích Đạo Phật: Mục đích Đạo Phật là giải thoát con người ra ngoài vòng sanh tử luân hồi, nghĩa là giúp con người chứng được trong bốn bậc Thánh, tức là đã ra khỏi ngoài vòng sanh tử luân hồi, chứng được Vô sanh.
IV- SỰ LUÂN HỒI CỦA MỌI VẬT
Lý luân hồi là một luật chung lưu hành của tất cả sự vật, không riêng gì cho loài hữu tình.
1- Các loài thực vật: Như cây vải, do hột cây vải gieo xuống đất, mọc thành cây vải, rồi có trái có hột, đem hột ấy trồng thành cây vải khác mãi mãi như vậy không bao giờ dừng nghỉ.
2- Mưa: Nước biển do khí nóng mặt trời bốc hơi lên, hơi gặp khí lạnh đọng thành mây, rồi rơi xuống thành mưa, nước mưa lại chảy về sông, biển. Nước sông, biển bốc hơi lên, làm mây, làm mưa, mãi mãi như vậy mà nước vẫn là nước, không bao giờ mất hẳn.
3- Sức nóng: Sức nóng chứa trong cây, tìm chẳng gặp, trông chẳng thấy, song lấy hai cây chà xát, hồi lâu có lửa bật cháy. Lửa ấy đốt cây tạo thành thán khí, các cây khác hút lấy thán khí để chứa lại sức nóng như trước hoặc lửa chuyền sức nóng cho các vật khác, chứ chưa bao giờ cùng tận.
V- NGUYÊN NHÂN CỦA LUÂN HỒI
Sự sanh tử luân hồi của con người do những nguyên nhân sau đây:
1- Sức mạnh của nghiệp: Con người sống ở đời là luôn luôn tạo các nghiệp về thân, về miệng, về ý nghĩ, những nghiệp này tiếp nối nhau luôn, tạo thành những sức mạnh dắt dẫn con người sau khi chết rồi phải đầu thai để sống một kiếp khác. Sức mạnh của nghiệp đó càng ngày càng được tăng cường nối tiếp, nên con người luôn luôn phải sống trong sanh tử luân hồi. Có bốn thứ nghiệp thường hay dắt dẫn con người đi đầu thai là:
- Tích lũy nghiệp: Là những nghiệp tạo tác trong nhiều đời trước chất chứa lại.
- Tập quán nghiệp: Là những nghiệp tạo trong đời hiện tại, luôn luôn tiếp diễn nên thành thói quen, thành tập quán.
- Cực trọng nghiệp: là những nghiệp quan trọng có năng lực tác động mãnh liệt hơn cả, nên chi phối tất cả.
- Cận tử nghiệp: Là những nghiệp lực gần lâm chung cũng rất mãnh liệt và dắt dẫn con người đi đầu thai.
2- Lòng tham sống sợ chết và sự luyến ái của con người: Không một ai không tham sống sợ chết, nên trong khi lâm chung cố hết sức bám víu vào sự sống, tìm hết cách để cho khỏi chết, lại thêm lòng tham lam dục lạc chưa được thỏa mãn, thành thử không lúc nào là không muốn sống để hưởng thọ những khoái lạc. Do lòng tham sống và lòng tham dục của con người nên khi phải bỏ xác thân này thời đi tìm một xác thân khác để thỏa mãn những sự ước vọng tham dục của mình.
3- Do sự mê mờ chấp trước: Tất cả chúng sanh huân tập theo chỗ tạo nghiệp, không trực nhận bản tánh chơn như bao la của vũ trụ, lại nhận cái biết nhỏ hẹp làm tâm của mình, nhận cái sắc nhỏ hẹp làm thân của mình. Nào khác gì biển cả mênh mông không tự nhận, lại chỉ nhận một bọt nước nhỏ là mình và cho nước nhỏ là biển thì quyết định không còn biết gì là biển nữa, và do đó theo bọt nước mà bị biến diệt vô thường. Khi chúng ta đã nhận lầm cái nhỏ hẹp là tâm, là thân, thì phải theo tâm theo thân nhỏ hẹp này mà chịu sanh tử luân hồi.
VI- HÀNH TƯỚNG LUÂN HỒI
Lối thọ sanh tùy theo hạnh nghiệp tác động sai khác không đồng nhau. tùy tâm sở thích, tùy hạnh nghiệp tạo tác mà thành những năng lực tác động rất mạnh dắt dẫn con người đi đầu thai, và dắt dẫn vào đường nào thì sanh vào đường ấy, cõi ấy. Như hạnh nghiệp thuần thiện, luôn làm các việc thiện, tu hành 10 điều thiện thời được thác sanh vào cõi thiện. Nếu hạnh nghiệp thuần là ác, thì dắt dẫn thác sanh vào địa ngục v.v… Kinh nghiệm cho chúng ta rõ rằng: Khi lâm chung nếu khắp thân đều lạnh, hơi nóng dồn vào chân thì sanh vào cõi súc sanh, ở nơi bụng thì sanh vào cõi ngạ quỷ, ở quả tim thì sanh vào cõi người, ở nơi con mắt thì sanh lên cõi trời và ở trên đầu thì được sanh lên cõi Tịnh Độ.
VII- SỰ CHỨNG NGHIỆM LÝ LUÂN HỒI
Lý luân hồi là một sự thực do Đức Phật đã trình bày, và sự thực này có nhiều bằng cớ, lý lẽ chứng minh một cách rõ ràng:
1- Chính trong từng tâm niệm, con người có thể trải qua trạng thái của sáu loài: Khi con người ôm lòng độc hại, thì cảnh Tu-la hiện khởi; khi người niệm điều thiện, thì cảnh giới nhân thiên hiện khởi, không bao giờ sai chạy.
2- Cảnh giới của sáu loài nhiều khi không ở đâu xa, chính hiện tiền xung quanh cũng có thể thấy được: Trên cõi đất này, những ngục hình, những phòng tra tấn, những trại giam có những hình phạt như tra kẹp hành hình, chó táp, đổ nước sôi v.v… thì đó là cảnh giới địa ngục, chỗ nào bị chiến tranh tàn phá, bị chết dưới làn bom đạn thì đó là cảnh giới địa ngục. Lại đối với con cua bị bỏ vào nước sôi, con lươn bị lột da đều phải sống trong cảnh giới địa ngục cả.
3- Thần đồng: Pascal trên 8 tuổi đã thông kỷ hà học. Bạch Cư Dị mới 5 tuổi đã biết làm thơ, không thể là một sự ngẫu nhiên. Những vị gọi là thần đồng đều do những đời trước đã từng có khả năng chuyên nghiệp về những môn gì, nên mới sanh ra là đã có những biệt tài siêu việt hơn người.
4- Các chuyện tiền thân: Các chuyện tiền thân do Đức Phật, các vị Bồ-tát thuật lại, một vài câu chuyện của một vài người nhớ lại kiếp trước, chứng tỏ rằng, đã có rất nhiều kiếp trước, nghĩa là con người đã từng sống qua nhiều trạng thái trong sáu đường, trước khi sống trong đời hiện tại.
5- Sự thông cảm giữa người và người: Có người, ta mới gặp liền sanh lòng thương yêu ngay, có người mới gặp liền sanh tâm ghét bỏ, có lẽ đó là vì nhiều đời trước chúng ta chung sống với người ấy, hoặc đã thương nhau hoặc đã ghét nhau, nên đời nay mới gặp, liền có những niềm thiện cảm hay ác cảm mãnh liệt như vậy.
VII- KẾT LUẬN
Với đạo lý luân hồi, Đức Phật đã nêu bày cho chúng ta rằng:
1- Nguyên nhân chính của sự đau khổ là mê mờ. Vì mê mờ mà tác động các hạnh nghiệp; do những nghiệp nhân ấy là phải chịu sanh tử luân hồi.
2- Con người luân chuyển trong sáu đường, đều tùy theo nghiệp nhân mà thọ quả báo, trong sự luân chuyển ấy, con người đã trải qua trạng thái của sáu loài, khi lên khi xuống tùy theo nghiệp nhân. Như vậy con người không phải là thống trị cả muôn vật và rất có thể tùy theo từng tâm niệm mà giá trị con người khi cao khi thấp không nhứt định.
3- Con người đã thọ sanh trong sáu đường, thời con người cùng với các loài đều có thể đắp đổi nhau làm cha mẹ, và như vậy mọi chúng sanh đều là bà con anh em với nhau trong đại gia đình chúng sanh.
4- Đạo Phật nói đến luân hồi là giúp con người giải thoát ra ngoài sự sanh tử luân hồi.
Ở đời ai nghèo đến nỗi không có thân. Thấy người làm phước, nên tự thân đến giúp, như vậy cũng gọi là thí chủ, cũng được phước đức.
NĂM GIỚI
I- ĐỊNH NGHĨA
Giới là phòng bị răn cấm ngăn ngừa. Năm giới là năm điều luật Phật chế để đối trị và ngăn ngừa những hành động không thiện, những ý tưởng phi pháp (phòng phi chỉ ác). Giới lại có nghĩa là biệt biệt giải thoát; không phạm một điều luật tức giải thoát được một hình ngục và hưởng thọ được công đức.
II- CÔNG NĂNG BẢO GIỚI
Giới là căn bản của Định và Huệ, thiếu giới, định huệ không phát triển và Phật quả không viên thành, như thiếu một nét ngang, thì hình ba góc không thành. Giới lại là ngọc ma-ni trang sức Pháp thân huệ mạng, và cũng là hàng rào sắt ngăn cản tội lỗi.
III- SỰ QUAN HỆ CỦA NĂM GIỚI
Năm giới là cấp bậc đầu tiên của con người trong khi hướng về đường thiện. Muốn bảo tồn nhân cách, duy trì đức hạnh để xứng đáng với danh nghĩa làm người, cũng phải vâng giữ năm giới. Năm giới lại là cơ sở của đạo giác ngộ và giải thoát và năm giới này là chính do Đức Phật thân chế ra.
IV- HÀNH TƯỚNG NĂM GIỚI
Năm giới là không sát sanh, không trộm cắp, không vọng ngữ, không tà dâm, và không uống rượu.
A- KHÔNG SÁT SANH
Không cắt đứt mạng sống của những động vật có trí giác cảm thọ, khác với thực vật và khoáng vật, nghĩa là không cố ý khi giết hại sinh vật, dù nhỏ nhiệm như côn trùng.
1- Phương tiện giết hại
a- Tự mình giết: Chú tâm và tự giết hại chứ không phải vô ý giết lầm.
b- Bảo người giết: Dùng uy lực lời nói sai bảo khuyến khích kẻ khác giết hại.
c- Thấy giết tùy hỷ: Thấy người giết hại, sanh tâm tùy hỷ tán thành, không thương xót can gián.
2- Lý do Phật cấm sát hại
a- Tôn trọng sự sống: Sinh vật dầu hình thể khác nhau, nhưng sự sống chỉ một nên không được sát hại.
b- Đồng thể: Tất cả chúng sanh đều tham sống sợ chết như nhau lại đồng chung một bản thể nên không được sát hại.
c- Hiến niệm: Chúng sanh chưa thoát khỏi luân hồi, nên có thể đầu thai trong ba đường dữ; muốn khỏi giết lầm thân nhân nên Phật cấm sát hại.
d- Quả báo: Sát hại người, sẽ bị sát hại lại.
3- Lợi ích của giới không sát
a- An vui: Không sát hại, đời này tâm hồn được an vui, không ăn năn không hối hận.
b- Sống lâu: Đời nay và đời sau được sống lâu, thân thể tráng kiện, ít tật bệnh, khỏi nạn đao binh được mọi người yêu mến.
c- Từ bi: Thọ trì giới không sát, tức là thực hành được một phần lòng từ bi không giới hạn của Đức Phật.
4- Thực hành giới không sát
Không sát hại chưa đủ. Phật tử cần phải dùng mọi phương tiện khôn khéo để trả lại quyền sống, quyền tự do cho muôn loài khỏi bàn tay sát phạt của người. Ăn chay là phương tiện để thực hiện tình thương cao rộng ấy.
B- KHÔNG TRỘM CẮP
Nghĩa là tất cả mọi vật trong thế gian dù quý báu như vàng ngọc, hay nhỏ nhiệm như cây kim ngọn cỏ, Phật tử không được manh tâm lấy dùng, khi chủ nhân không bằng lòng hay vắng mặt.
1- Hành tướng trộm cắp
a- Đoạt thủ: Dùng uy thế sức mạnh chiếm đoạt tư hữu của người.
b- Thiết thủ: Dùng mánh khóe quỷ quyệt trộm cắp của người.
c- Trá thủ: Dùng phương chước điêu ngoa dối gạt người. Cho đến bất cứ dùng phương thức nào, chiếm đoạt tư hữu của người một cách máy móc phi pháp, tức phạm tội này, cho đến trốn thuế đò cũng vậy.
2- Lý do Phật cấm trộm cắp
a- Tôn trọng tư hữu: Của cải tư hữu là vật không nên xâm phạm của người, nên Phật cấm không được tự tiện lấy dùng.
b- Diệt trừ tham dục: Tham lam là sợi dây gút chặt chúng sanh trong đau khổ, muốn thoát ly cần phải diệt trừ tham lam.
c- Tương quan sinh tồn: Đức Phật dạy tất cả mọi loài chúng sanh đều cùng một bản thể. Nếu ta đem người vào cảnh lầm than sầu hận, tức tự gieo mình vào đau khổ thất vọng.
3- Lợi ích của giới không trộm cắp
a- Hiện quả: Không gian tham trộm cắp thì đời sống được tự do, không hồi hộp lo sợ.
b- Hậu quả: Đời sau được giàu sang đầy đủ; mọi người tín nhiệm không bị lường gạt.
c- Trực tâm: Đối lại với gian tham là trực tâm. Đạo Phật là Chánh đạo nên người tu hành cần phải có trực tâm.
4- Phương tiện thực hành giới không trộm cắp:
Hoài bão cao quý của Đạo Phật là nâng cao đường sinh hoạt của xã hội, cả tinh thần lẫn vật chất bằng phương tiện tài thí và pháp thí. Muốn hoàn thành giới không trộm cắp, Phật tử cần phải bố thí.
C- KHÔNG TÀ DÂM
Không được sống đời sống hoang đàng trác táng, ăn chơi. Kinh có câu: Cội gốc đường sanh tử, dâm dục là thứ nhứt. Vì thế nên kẻ xuất gia nguyện đoạn tận gốc nguồn. Riêng về hàng tại gia vì nghiệp duyên và hoàn cảnh, nên Phật cho tùy nguyện, nhưng triệt để không được hành dâm trái với luân thường Chánh đạo.
1- Phương tiện thực hành tà dâm
a- Thân: Sống trác táng ăn chơi, đọc xem các tranh ảnh sách báo nói về tà dục.
b- Miệng: Nói những lời tà dục bất chánh.
c- Ý: Ý nghĩ tà dục trái luân thường đạo lý.
2- Lợi ích giữ tiết dục
a- Tiết dục: Chỉ có tiết dục thân thể mới điều hòa, tâm hồn mới trong trắng, và do thế nên có thể siêng năng tinh tấn đạo nghiệp.
b- Giải thoát triền phược: Tà dục là sợi dây ràng buộc ta vào sanh tử, không tà dục tức đã cắt đứt được một phần nào sợi dây ấy.
c- Phạm hạnh: Không tà dục tức tiến tới tịnh hạnh.
3- Lợi ích của giới tà dâm
a- Hiệu quả: Nếu không tà dâm thì được người đời kính trọng tín cẩn, và thân thể cường tráng.
b- Hậu quả: Đời sau sẽ được sanh lên những cảnh giới thanh tịnh, khỏi bị đọa đày.
c- Thanh tịnh: Có thanh tịnh mới mong khỏi nhiễm ô. Trừ tà dục là phương tiện thực hành hạnh thanh tịnh của chư Phật.
D- KHÔNG VỌNG NGỮ
Không nói dối, nghĩa là không phỉnh gạt lừa dối người, trái lại bao giờ cũng nói lời ngay thẳng thật thà.
1- Hành tướng của vọng ngữ
a- Vọng ngôn: Lấy trái nói phải, lấy phải nói trái, không thấy nói thấy, thấy nói không thấy v.v…
b- Ỷ ngữ: Dùng lời nói hoa mỹ để xuyên tạc sự thật và khêu gợi lòng tham dục của người.
c- Ác khẩu: Nói lời thô lỗ ác độc như mắng chửi người v.v…
d- Hai lưỡi: Đến người này nói xấu người kia, đến người kia nói xấu người này, khiến hai bên thù hằn ghét bỏ nhau. Tất cả những lời nói có hại mình và hại người ở hiện tại và tương lai, đều phạm tội vọng ngữ. Trừ khi nói chơi hay vì lợi người mà nói thì không phạm.
2- Sự nguy hại của vọng ngữ
a- Hại của vọng ngôn: Vì nói dối nên không thấy được sự thật, làm ngăn che trí giác của người và mình.
b- Hại của ỷ ngữ: Mê hoặc lòng người.
c- Hại của nói hai lưỡi: Gia đình tan nát, thân thích thù ghét nhau.
d- Hại của ác khẩu: Làm người đau khổ tức tối uất ức.
3- Lợi ích của giới không vọng ngữ
a- Hiện quả: Được mọi người tín thọ thương yêu.
b- Hậu quả: Đời sau được tướng lưỡi viên mãn.
c- Hậu hỷ: Không nói dối người thì người được vui vẻ hòa thuận và tâm hồn mình cũng khỏi thắc mắc hối hận.
4- Thực hành giới không vọng ngữ
Không nói dối là việc đáng quý, nhưng Phật tử cần phải dùng những lời chơn ngôn thực ngữ (Pháp thí) để giảng dạy cho người, mong đem họ về con đường chánh, con đường giác ngộ hạnh phúc của chư Phật.
Đ- KHÔNG UỐNG RƯỢU
Rượu là một thứ làm con người ngu si tối tăm, hôn ám, mê say, cuồng loạn, nên Đức Phật chế cấm không được uống rượu.
1- Tai hại của rượu: Người uống rượu nhiều thì tâm thần rối loạn, ý niệm điên đảo, và thân thể hư mòn tiều tụy. Rượu là một thứ diệt mất giống trí huệ và mở đường cho tất cả tội lỗi.
2- Trường hợp có thể uống: Nếu có bệnh, thầy thuốc bảo dùng thì được uống, nhưng không uống nhiều và đừng dùng những thứ say người. Ngoài ra không được vô cớ tự dùng, cho đến cũng không được bán rượu.
3- Lợi ích của giới không uống rượu
a- Bình tĩnh: Không cuồng say, tức là bình tĩnh. Không uống rượu là phương tiện làm lòng người bình tĩnh và lạc quan.
b- Hiện quả: Khỏi bị người khác chê cười.
c- Hậu quả: Đời sau khỏi đọa lạc vào nơi tối tăm thiếu ánh sáng Phật pháp.
d- Trí huệ: Không uống rượu chính là để khai phát và làm tăng trưởng ánh sáng trí huệ, Phật tử thực hành giới này tức là sống đúng với hạnh trí huệ của chư Phật.
Tóm lại bốn giới trên đều thuộc về tánh giới nghĩa là dù Đức Phật có cấm hay không, hễ đã phạm thì mắc tội. Còn giới sau thuộc về giá giới, vì muốn phòng ngừa các tội nên Phật chế giới này. Cho nên hễ phạm tức là trái với lời Phật dạy.
V- CÁCH THỨC GIỮ GIỚI
Chúng ta đã thấy giới là nền tảng của giải thoát và giác ngộ, cho nên muốn thân chứng Phật quả cần phải giữ giới. Nhưng muốn giữ giới cho có kết quả, cần phải hiểu cách thức giữ giới.
A- CẦN PHẢI HIỂU RÕ NGHĨA CỦA GIỚI
Chúng ta cần phải hiểu rằng:
1- Giới là nguồn gốc: Là nền tảng của giác ngộ, của giải thoát. Không có giới thời không thể nào giác ngộ, không thể nào giải thoát được.
2- Giữ giới chỉ là một cử chỉ tùy nguyện: Tùy theo khả năng của mình, có thể giữ nhiều ít, nhưng đã nguyện giữ thời phải triệt để tuân hành.
3- Giới là chính thân Đức Phật chế ra: Các vị Bồ-tát, các vị Tổ sư cũng không có quyền chế giới.
Đức Phật căn cứ nơi tự tánh thanh tịnh của chúng sanh và căn cứ nơi tánh tình căn cơ của chúng sanh mà chế ra.
4- Giới có năng lực giải thoát và giác ngộ rất mạnh: Tự thể của giới đã là một sức mạnh vô song rồi, mà người giữ giới cần phải có đại hùng đại lực mới giữ nổi; và vì vậy một người giữ giới tự thân tiềm tàng những sức mạnh vô hình làm mọi người đều cảm phục.
5- Cần phải hiểu rõ: Ý nghĩa lễ truyền giới và hành tướng của các giới hành trì.
B- CẦN PHẢI THÀNH THẬT
Mình phải thành thật với chính mình. Có phạm hay không tự mình biết rõ. Có phạm không được che giấu, cũng không được đổ lỗi, tự bào chữa, tự tha thứ.
C- PHẢI CƯƠNG QUYẾT HÀNH TRÌ
Đã nguyện giữ giới thời phải cương quyết hành trì dầu gặp những trở lực lớn mấy cũng không phế bỏ. Nếu tự sức không thể giữ được, thì có thể xin làm lễ bớt giới lại; điều cần thiết là đã nguyện giữ, thời phải cương quyết giữ.
D- PHẢI BIẾT LƯỢNG SỨC MÌNH
Tự mình phải biết lượng sức mình, giữ được giới nào thì nguyện giữ lấy giới ấy, không được nhắm mắt thọ giới một cách mù quáng vô ý thức.
Đ- PHẢI BIẾT SÁM HỐI
Khi nào phạm giới, thì nên đứng trước Tam Bảo hoặc vị Bổn sư của mình mà phát lồ sám hối, chớ có ẩn tàng lừa mình, lừa người.
VI- KẾT LUẬN
Chúng ta thấy rõ giới là căn bản của giải thoát và giác ngộ. Những ai đã phát nguyện tiến mạnh trên đường đạo, cần phải hành trì giới luật, và cương quyết giữ năm giới, không vì một trở lực gì mà thối thất. Có vậy chúng ta mới hiểu đúng chánh nghĩa của chữ giới và mới nhận thấy người giữ giới là người cương quyết, nhiều nghị lực nhứt, và được thấy mình một ngày một tiến trên đường đạo.
_____________________________
MƯỜI ĐIỀU THIỆN
I- ĐỊNH NGHĨA
Mười điều thiện là mười việc lành, về thân (thân nghiệp), về lời nói (khẩu nghiệp), về ý nghĩ (ý nghiệp), có tính cách lợi mình lợi người ở hiện tại và ở tương lai. Mười điều này là căn bản làm người và là nấc thang đầu tiên để tiến đến quả Phật.
II- HÀNH TƯỚNG MƯỜI ĐIỀU THIỆN
A- THÂN NGHIỆP
Những hành vi tác động về thân có ba:
a- Không sát sanh: Nghĩa là không cắt đứt mạng sống các loài chúng sanh, từ loài người cho đến các loài sâu kiến nhỏ nhiệm; không tự mình giết hại, không sai người khác giết hại, không thấy kẻ khác giết hại mà sanh lòng vui mừng tán thành. Trái lại, người Phật tử phải tìm các phương tiện để cứu sống chúng sanh thoát khỏi các tai nạn.
b- Không trộm cắp: Nghĩa là không chiếm đoạt về phần mình những vật thuộc về người khác, từ những vật lớn như ruộng vườn vàng bạc cho đến những thứ nhỏ nhiệm như cây kim ngọn cỏ. Người ta không thuận cho hoặc vắng mặt mà tự tiện lấy dùng, cũng thuộc về trộm cắp. Hoặc dùng sức mạnh cướp đoạt của người, trộm lén lấy của cải của người, dùng phương kế xảo trá để lường gạt người cho đến tránh thuế trốn đò cũng thuộc về tội trộm cắp, trái lại, nên đem tư sản của mình để giúp đỡ chúng sanh.
c- Không tà dâm: Nghĩa là không sống trác táng ăn chơi. Trái lại, phải tu hạnh tiết dục thanh tịnh. Hàng tại gia chỉ cấm tà dục, còn người xuất gia thì cấm hẳn, vì tà dục là cội gốc sanh tử luân hồi.
B- KHẨU NGHIỆP
Những lời nói phô có bốn cách:
1- Không nói lời dối trá: Nghĩa là không nói sai sự thật như:
a- Không thấy nói thấy, thấy nói không thấy.
b- Nghe nói không nghe, không nghe nói nghe.
c- Biết nói không biết, không biết nói biết.
d- Trái nói phải, phải nói trái.
Gặp trường hợp đặc biệt như cứu chúng sanh khỏi tai nạn, hoặc nói chơi thì có thể châm chước không phạm. Ví dụ khi gặp người thợ săn đuổi tìm con vật, kẻ ấy tới hỏi, mình có thấy, muốn cứu con vật nên không chỉ, không nói. Như vậy không những không phạm mà còn đúng với hạnh từ bi.
2- Không nói lời độc ác: Như chửi rủa mắng nhiếc v.v… trái lại nói lời hòa nhã êm dịu.
3- Không nói lời thêu dệt: Không nói lời trau chuốt cho văn hoa đẹp đẽ, khiến người mê loạn tâm trí, mất hẳn nhân cách. Trái lại cần phải nói lời chơn trực.
4- Không nói hai lưỡi: Không nói lời phản gián, đến bên này nói xấu bên kia, đến bên kia nói xấu bên này, khiến bà con bạn bè sanh ác cảm thù ghét lẫn nhau. Trái lại phải nói lời hòa giải.
C- Ý NGHIỆP
Chỉ cho những tư tưởng ý nghĩ có ba:
1- Không tham lam: Không tham muốn năm món dục lạc ở đời là sắc đẹp, của cải, danh vọng, ngủ nghỉ, ăn uống. Trái lại phải tu hạnh tiết dục và tri túc, sống một đời sống giản dị, thanh cao.
2- Không sân hận: Đối với nghịch cảnh không sanh lòng giận hờn. Trái lại phải tu hạnh từ bi, hoan hỷ, nhẫn nhục, tìm phương tiện làm cho chúng sanh vui vẻ hòa hợp, dù đối với kẻ làm hại mình.
3- Không ngu si: Đối với sự lý, biết phán đoán, không cố chấp sự hiểu biết riêng của mình, không tin những lý thuyết không đúng chơn lý, không mê tín dị đoan. Trái lại phải tu hạnh trí huệ để trừ vô minh và bao giờ cũng biết phục thiện.
III- LỢI ÍCH SỰ TU MƯỜI ĐIỀU THIỆN
Nếu tu mười điều thiện sẽ được những lợi ích như sau:
- Thân không bị tật bệnh
- Thọ mạng được lâu dài
- Thường được các hạng phi nhân ủng hộ.
- Thường không có ác mộng
- Tiêu diệt những oán thù ngày trước.
- Sau khi chết sanh lên Thiên giới hưởng các sự vui.
- Được mọi người thương mến.
- Không ai lường gạt.
- Ở chỗ đông người không sanh lòng sợ hãi.
- Tâm luôn luôn thanh tịnh.
- Chồng vợ trinh tiết.
- Người đời kính phục.
- Lời nói không bị sai lầm.
- Tiếng nói trong trẻo.
- Trí huệ sáng suốt.
- Bà con sum vầy.
- Người dữ không hại.
- Gặp nhiều bạn tốt.
- Nói ra được nhiều người hưởng ứng.
- Đầy đủ được các vật quý báu.
- Muốn gì đều được như ý.
- Ra đời được gặp chánh lý.
- Không bị người gièm chê.
- Thân tướng tốt đẹp.
- Không bị các tai ương. Nếu đem công đức tu 10 điều thiện hồi hướng về đạo Bồ-đề thì được thành tựu Phật quả.
IV- SỨC MẠNH MƯỜI ĐIỀU THIỆN
1- Cải tạo tự thân: Con người về sắc thân tánh tình trí thức đều do nghiệp nhân chi phối. Sự thực hành mười điều thiện sẽ hoán cải hoàn toàn tâm tánh, trí thức và sắc thân của mình. Ví dụ như không sát sanh mà lại phóng sanh thời tánh tình sẽ thành từ bi và trí huệ sẽ sáng suốt.
2- Cải tạo hoàn cảnh: Mười điều thiện này sẽ hoán cải hoàn toàn mọi hoàn cảnh, ví dụ như một người không bao giờ sân hận, lại tu hành nhẫn nhục thì hoàn cảnh sẽ không có một sự oán thù chiến tranh giết hại nào, mà chỉ toàn là thiệt cảnh hoan hỷ, tương thân tương ái.
3- Chánh nhân thiên giới: Nếu thực hành mười điều thiện này thời mới sanh lên các cõi trời an vui đẹp đẽ hơn hẳn cõi người. Như lên các cõi trời thời sự phước lợi sẽ rất đầy đủ, được nghe nhạc trời, cơm ăn áo mặc đầy đủ, sống thanh tịnh, sống lâu, v.v…
4- Căn bản Phật quả: Mười phương Phật ba đời các vị Hiền Thánh thoát khỏi sanh tử, chứng quả Vô thượng đều lấy mười điều thiện làm căn bản, vì mười điều thiện này có công năng ngăn đón các hành vi độc ác, đối trị các điều không lành
và làm ba nghiệp thanh tịnh. Khi ba nghiệp được thanh tịnh thời được khỏi sanh tử, chứng quả Niết- bàn. Và đem mười điều thiện này hồi hướng cho toàn thể chúng sanh, tức thành tựu được Phật quả.
V- KẾT LUẬN
Mười điều thiện này giới thiệu cho chúng ta những việc làm rõ ràng thiết thực, để chúng ta theo đó mà thi hành. Mười điều thiện này nêu rõ chỉ có việc làm mới có giá trị, chứ nói suông không lợi ích gì. Mười điều thiện này lại giúp chúng ta cải thiện đời sống của chúng ta và của mọi loài, hoán cải tự thân và xã hội trở thành thiện mỹ, và nhứt là hướng dẫn chúng ta đến Phật quả rốt ráo hoàn toàn.
Vậy là Phật tử, chúng ta cần phải thực hành, cần phải bắt tay vào việc làm và nhứt là y theo đúng mười điều thiện này mà hành động. Chỉ có vậy chúng ta mới tỏ là xứng đáng một Phật tử chơn chánh và mới thấy tất cả sự lợi ích thiết thực của Đạo Phật.
Nếu vị Bồ-tát không trụ tướng bố thí thời phước đức của sự bố thí ấy không thể lường được.
KINH KIM CANG
BỐN ÂN
I- LỜI NÓI ĐẦU
Làm người ở đời, được sống, được thành đạt chút gì toàn nhờ công ơn của mọi người, của xã hội, của chúng sanh. Nhứt là người Phật tử lại có công ơn của Phật, Pháp, Tăng đã đem lại huệ mạng cho mình. Nên những ai muốn thành tựu nhân cách, muốn nhận rõ ý niệm của đời sống tương quan, không thể không biết đến bốn ân và những phương cách đền đáp.
II- HÀNH TƯỚNG BỐN ÂN
Bốn ân: Là ân cha mẹ, ân thầy bạn, ân quốc gia xã hội, ân Tam Bảo.
A- ÂN CHA MẸ
1- Ân sanh sản: Chín tháng cưu mang, bà mẹ bỏ ăn mất ngủ, thân thể không an. Đến khi sanh sản đau đớn vô cùng khác gì đứt từng khúc ruột. Còn cha phải chạy ngược chạy xuôi, lo sắm vật dụng để chu toàn cho mẹ con, và hồi hộp trông mong cho mẹ con được vuông tròn.
2- Ân nuối nấng: Khi mới sanh, phải nhờ cha mẹ đổ sữa mớm cơm, bồng ẵm dắt dìu, cha mẹ phải luôn luôn săn sóc, không thể rời xa được một ngày.
3- Ân thuốc thang: Mỗi khi đau ốm thời cha mẹ quên ăn bỏ ngủ, quanh quẩn bên giường bệnh, và lo săn sóc cơm cháo thuốc thang.
4- Ân dạy bảo: Đến khi khôn lớn, cha mẹ phải chăm sóc dạy bảo, trau giồi đức hạnh để con đủ tư cách làm người, và để tự nuôi nấng ở đời.
B- ÂN THẦY BẠN
1- Mở rộng kiến thức: Vì muốn nâng cao trình độ hiểu biết cho ta, nên thầy phải gia công dạy bảo, không kể hao tổn tinh thần.
2- Khuyến khích: Thầy bạn luôn ở bên cạnh mình để khuyến khích dắt dẫn, trong những lúc bị thất vọng chán nản, trong những trường hợp khó khăn, trong những lúc bị tai nạn bất ngờ.
3- Khai sáng trí thức: Bây giờ biết đọc biết viết, biết nhận xét sự lý, toàn nhờ công ơn của thầy bạn đã luôn luôn dạy bảo dắt dìu.
C- ÂN QUỐC GIA XÃ HỘI
1- Trị an: Nhờ những vị chưởng quản việc nước, lo sửa sang nước nhà, mở mang các công nghệ, dẹp trừ những kẻ tham lam bóc lột, đem lại thái bình thịnh trị cho dân chúng.
2- Giữ gìn biên giới: Nhờ ơn chánh phủ lo bảo toàn biên giới, không cho giặc cướp xâm lăng, nên dân chúng mới được an toàn.
3- Cơm áo: Ta có cơm ăn áo mặc, toàn nhờ công ơn của người nông phu, kẻ dệt vải…
4- Thuốc thang: Các lương y hảo dược giúp chúng ta thoát khỏi đau ốm được sống lành mạnh vui vẻ.
5- Súc sanh: Trâu kéo cày, ngựa kéo xe, đều là công ơn thay thế sự mệt nhọc chúng ta.
D- ÂN TAM BẢO
1- Ân Phật bảo
a- Xả quốc thành, thê tử: Vì muốn cứu độ chúng sanh, nên Đức Phật bỏ tất cả quốc thành, bửu vị, thê tử, quyến thuộc để xuất gia tìm đạo.
b- Sáu năm khổ hạnh: Vì muốn chứng chơn lý để giải thoát chúng sanh, nên Ngài đã quên đói rét, tu khổ hạnh sáu năm trời. Rồi Ngài lại ngồi tham thiền 49 ngày dưới gốc cây Tát-bát-la để thành đạo cứu độ chúng sanh.
c- Thuyết pháp giáo hóa: Trong 49 năm, Ngài không quản những nỗi gian lao khổ nhọc đi khắp đó đây, để thuyết pháp giáo hóa chúng sanh, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo căn cơ mà dạy dỗ, dẫn dắt chúng sanh, để Chánh pháp được lưu truyền muôn thuở.
2- Ân Pháp bảo
a- Mở đường giải thoát: Nhờ Pháp bảo, chúng ta mới biết đường lối tu hành, thoát ly sanh tử, chứng cảnh giới thanh tịnh an vui.
b- Giản trạch tà chánh: Nhờ Pháp bảo, chúng ta nhận rõ được sự lý trong vũ trụ, phân biệt được các pháp chánh tà.
c- Diệt ác hưng thiện: Pháp bảo có công năng dẹp trừ những ác pháp, bồi đắp, phát triển các thiện pháp.
3- Ân Tăng bảo
a- Duy trì Chánh pháp: Các vị xuất gia tu hành, phiên dịch, diễn giảng ba Tạng giáo điển, khiến Phật pháp thường còn không mất.
b- Thay Phật thuyết pháp: Sau khi Đức Phật nhập diệt, các vị Tăng già chịu lời phú chúc của Đức Phật, đem đạo mầu giáo hóa khắp nơi.
c- Truyền trao giới pháp: Các vị tại gia cư sĩ muốn phát tâm cầu đạo giải thoát, đều nhờ các vị Tăng già truyền trao giới pháp nêu gương tu hành.
III- PHƯƠNG TIỆN ĐỀN TRẢ BỐN ÂN
A- CÁCH BÁO ÂN CHA MẸ
1- Hiếu hạnh: Cung kính, vâng lời hết lòng phụng sự cha mẹ.
2- Tôn trọng danh dự: Không làm phiền lòng cha mẹ bằng cách làm mất danh dự của gia tộc, mất tư cách con người.
3- Hiển danh cha mẹ: Tự mình tài đức hơn người thì cha mẹ được thơm lây, lưu tiếng nghìn thu.
4- Khuyến hóa: Khuyến khích cha mẹ cải tà quy chánh, quy y Tam Bảo, thực hành Phật pháp. Như gương của ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ ra khỏi ngạ quỷ, như Đức Phật Thích Ca sau khi thành Phật lên cõi trời Đao Lợi giáo hóa cho Mẫu hậu và về thành Ca-tỳ-la-vệ giáo hóa cho Phụ vương.
B- CÁCH BÁO ÂN THẦY BẠN
1- Siêng năng học tập: Để khỏi phụ lòng dạy dỗ dắt dẫn của thầy bạn.
2- Cung kính lễ độ: Hết lòng cung kính thầy, thương mến chơn thành với bạn.
3- Thực hành: Sống đúng theo lời thầy bạn dạy bảo khuyên nhủ.
4- Khuyến hóa: Khuyến hóa thầy bạn sống đúng theo lời Phật dạy.
C- CÁCH BÁO ÂN QUỐC GIA XÃ HỘI
1- Tròn bổn phận: Sống đúng theo quốc chế, biết đoàn kết, biết làm tròn hết bổn phận của mình.
2- Phát triển văn hóa: Làm cho nền văn hóa nước nhà được dồi dào, nâng cao trình độ của dân chúng, phát huy đạo đức đưa dân chúng đến con đường thiện mỹ.
3- Kinh doanh sự nghiệp: Kinh doanh buôn bán để nâng cao đời sống xã hội.
4- Sống giản dị: Không quá tham cầu về vật chất, sống đời giản dị vừa phải trong sự ăn mặc.
5- Tương thân tương ái: Thương yêu cứu giúp tất cả người và vật.
D- CÁCH BÁO ÂN PHẬT PHÁP TĂNG
1- Học và hành lời Phật dạy: Nghiên cứu học tập Kinh điển Phật dạy, tập sống đúng theo như lời Đức Phật dạy.
2- Hộ trì Phật pháp: Tổ chức các cơ quan Phật giáo thành tâm ủng hộ Phật pháp và làm các Phật sự.
3- Cung kính cúng dường: Trọn đời quy ngưỡng Phật, Pháp, Tăng, cung kính cúng dường các vị tu hành giới đức thanh tịnh.
IV- KẾT LUẬN
Không luận người sang kẻ hèn, đã sống ở đời tức phải biết bốn ân và tìm tất cả phương tiện để trả. Riêng đối với người Phật tử, được nhận rõ công ơn của chúng sanh, của Phật Pháp Tăng nên cần phải luôn luôn cố gắng đền đáp bốn ân. Và muốn vậy, người Phật tử phải nhận rõ rằng, chỉ có sống đúng theo lời Phật dạy, và khuyến hóa mọi người, mọi loài đều sống theo lời Phật dạy, là cách đền ơn trả nghĩa quý hóa thiết thực nhứt, và đúng với bản nguyện của chư Phật và các vị Bồ-tát.
_____________________________
BỐN NHIẾP PHÁP
I- LỜI NÓI ĐẦU
Đức Phật ra đời với một ý niệm lợi sanh. Cho nên trong tất cả phương tiện giáo hóa khuyến tu của Ngài, không một pháp môn nào ra ngoài mục đích ấy.
Phật tử cũng vậy, học Phật không những riêng giác ngộ cho mình, còn giác ngộ cùng khắp tất cả, nghĩa là phải lợi sanh.
Song muốn thực hiện tinh thần lợi sanh của Đức Phật, Phật tử cần phải học hành bốn nhiếp pháp. Bốn nhiếp pháp là những phương tiện giản dị, căn cứ vào lòng từ bi để khuyến hóa chúng sanh bỏ tà theo chánh.
II- ĐỊNH NGHĨA
Bốn nhiếp pháp là bốn phương pháp nhiếp hóa chúng sanh, nghĩa là bốn phương tiện này ứng dụng trong mọi trường hợp và hoàn cảnh, có công năng nhiếp phục và giác ngộ chúng sanh.
III- HÀNH TƯỚNG BỐN NHIẾP PHÁP
Bốn nhiếp pháp là: Bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.
1- Bố thí nhiếp: Nhiếp hóa bằng cách bố thí.
Bố thí có ba phương diện.
a- Tài thí: Cũng gọi là Tư sanh thí. Nghĩa đem của cải giúp đỡ đời sống thiết thực cho chúng sanh. Tài có hai:
- Ngoại tài: Của cải ngoài tự thân như: Bố thí tiền bạc, áo cơm, nhà cửa, thuốc thang v.v…
- Nội tài: Của cải ngay trên thân như bố thí thân mạng, bố thí sức lực, bố thí lời nói, bố thí tư tưởng ý kiến v.v…
b- Pháp thí: Đem giáo pháp chơn chánh bố thí. Pháp thí có:
- Cúng dường Chánh pháp: Thực hành, kính lễ, tụng đọc Phật pháp, để hồi hướng công đức cho tất cả chúng sanh.
c- Vô úy thí: Bố thí đức vô úy nghĩa là dùng tất cả phương tiện bố thí để chúng sanh an tâm trước mọi sự nguy hiểm và biến cố. Vô úy thí có bốn:
- Gặp khi đói kém: Ta đem của cải áo cơm bố thí.
- Không làm ác gây hại chúng sanh: Không bao giờ làm các điều ác não hại chúng sanh, khiến chúng sanh nghe tên thấy hình được khỏi các điều sợ hãi. Làm việc thiện mà lo sợ không thành, ta hãy bố thí bằng sức lực, ý kiến hay của cải để tán trợ cho thành tựu.
- Gặp tai nạn khủng khiếp ta hãy tìm phương giải cứu.
- Sợ khổ sanh tử luân hồi ta phải giáo hóa khuyến tu để cầu giải thoát.
2.- Ái ngữ nhiếp: Dùng lời nói từ hòa thân mật và thành thật để nhiếp hóa. Ái ngữ có ba:
a- Lời nói sáng suốt rõ ràng hợp chánh lý để cảm hóa hướng dẫn người.
b- Lời nói hòa nhã, hiền dịu để cảm hóa khuyến khích và an ủi.
c- Lời nói thành thật ngay thẳng không xảo quyệt, để cảm hóa tăng trưởng lòng tin kính Phật, Pháp, Tăng.
3- Lợi hành nhiếp: Nhiếp hóa bằng tất cả hành động có lợi ích. Lợi hành có hai:
a- Lợi hành trong công việc: Thực hành hạnh tài thí để tư trợ đời sống vật chất cho mọi người, thực hành hạnh pháp thí để giáo hóa mọi người và thực hành hạnh vô úy thí để dung hòa những tư tưởng khiếp nhược cho chúng sanh.
b- Lợi hành trong sự tấn tu: Giữ giới thanh tịnh siêng tu thiền quán, diệt trừ tham dục và đào thải si mê v.v…
Lợi hành trong công việc là đem lại lợi ích trực tiếp cho chúng sanh, nhưng lợi hành trong sự tấn tu mới tích cực lợi ích chúng sanh một cách sâu rộng, nhiếp hóa chúng sanh một cách tự tại.
4- Đồng sự nhiếp: Cùng sống với chúng sanh trong một công việc và dung hòa trong mọi hoàn cảnh, tư tưởng địa vị để cảm hóa và nhiếp phục. Đồng sự có bốn:
a- Cùng sống trong một công việc như: Học tập, chức vụ, thương mại v.v…
b- Cùng sống trong một hoàn cảnh như:
Giàu nghèo, sang, hèn v.v…
c- Cùng sống trong một địa vị như: Chức tước, quyền vị v.v…
d- Cùng sống một tư tưởng khác như: Thượng tầng tư tưởng, trung tầng tư tưởng và hạ đẳng tư tưởng để cảm hóa và nhiếp phục.
IV- LỢI ÍCH CỦA BỐN NHIẾP PHÁP
Ngoài công năng hấp dẫn và nhiếp hóa, bốn nhiếp pháp còn có công năng đem lại thật lợi hoàn toàn cho chúng sanh:
1- Bố thí: Chúng sanh sẽ được ba món giải thoát:
a- Giải thoát cảnh khổ bần cùng.
b- Giải thoát tội chướng vô minh trong đời nay và nhiều đời.
c- Giải thoát mọi nỗi lo sợ.
2- Ái ngữ: Chúng sanh sẽ được ba món tự tại:
a- Tất cả giáo điển vi diệu sẽ được tự tại thấu nhập.
b- Tất cả phiền não sầu khổ sẽ được tự tại an vui.
c- Tất cả công đức thù thắng sẽ được tự tại tăng trưởng.
3- Lợi hành: Chúng sanh sẽ được hai món tăng tiến:
a- Tăng tiến phước thiện trong tất cả hành vi
b- Tăng tiến đức độ trong tất cả ý niệm.
4- Đồng sự: Chúng sanh sẽ được hai món thành tựu:
a- Cải thiện tất cả hạnh nghiệp bất chính để hoàn toàn thành tựu hạnh nghiệp chơn chánh.
b- Cải thiện tất cả ý niệm và tập quán bất chính để hoàn toàn thành tựu ý niệm tập quán thiện mỹ.
V- KẾT LUẬN
Bốn nhiếp pháp là một pháp môn rất cụ thể hoàn bị để “lợi sanh”. Căn cứ vào lòng từ bi vô lượng của Đức Phật, thì lợi sanh là hạnh chính trong tất cả hạnh của Đức Phật, là mục đích tối cao và duy nhứt của Đức Phật ra đời. Vì thế, Bốn nhiếp pháp có một giá trị đẹp đẽ và tiêu biểu ý chí cao rộng của Đức Phật, cũng như có một giá trị siêu việt trong tất cả các phương pháp lợi sanh của Phật đà.
_____________________________
KINH TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ
CỦA BẬC ĐẠI NHƠN
I- ĐỊNH NGHĨA ĐỀ KINH
1- Kinh: Nói cho đủ là Khế Kinh có hai nghĩa: Khế lý: Hợp với chơn lý, lẽ phải, không trái sự thật; Khế cơ: Hợp trình độ căn cơ của mọi loài chúng sanh.
2- Bát đại nhơn giác: Là tám điều giác ngộ của bậc Đại nhơn.
a- Đại nhơn: Chỉ cho các Đức Phật, các vị Bồ- tát là những bậc Tối thắng trong tất cả các hàng chúng sanh, tài trí đức hạnh đều siêu việt tất cả.(1)
b- Giác: Hiểu đúng chơn lý, giác là đối với mê. Chúng sanh mê tâm, chấp vạn hữu là thật có. Nhị thừa diệt trừ ngã chấp, nhưng chủng tử pháp chấp vẫn còn; hàng Đại thừa Bồ-tát, ngã, pháp chấp đều đoạn, nhưng vi tế trần sa hoặc, vô minh hoặc vẫn còn. Đức Phật là bậc hoàn toàn giác ngộ, trí chiếu cùng khắp, nên gọi Ngài là Giác giả.
II- TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ
1- Điều giác ngộ thứ nhứt: Hiểu vạn pháp trong thế gian là vô thường biến đổi. Thân năm ấm cho đến vọng tâm phân biệt đều là nguồn gốc của mọi sự thống khổ sanh tử. Người tu hành hiểu biết và quán sát như thế, thì sẽ khỏi phải sanh tử luân hồi.
2- Điều giác ngộ thứ hai: Hiểu mọi sự khổ não của đời, bất cứ hiện tại hay tương lai là do lòng tham dục ích kỷ. Vậy nên muốn được tự tại an vui, người tu hành phải đoạn trừ tham dục.
3- Điều giác ngộ thứ ba: Hiểu rằng nguồn gốc của tội ác chính do lòng tham không nhàm chán. Người Phật tử có ánh sáng của trí huệ soi chiếu nên nguyện trừ tham dục, tu hành tri túc và kiên chí giữ đạo thanh bạch.
4- Điều giác ngộ thứ tư: Hiểu sự lười biếng trễ nhác là cội gốc của mọi sự thiệt hại, thất bại. Chí nguyện tu hành của Phật tử là thoát ly sanh tử, xa lìa huyễn chất. Vậy nên phải nguyện một mực tinh tấn tu hành và phá trừ các giặc phiền não oán thù.
5- Điều giác ngộ thứ năm: Hiểu sự ngu si là cội gốc của đường sanh tử, là căn bản của sầu khổ đọa đày. Vậy nên người Phật tử tu hành quán huệ, học rộng nghe nhiều, để phát triển trí huệ. Trí huệ có minh mẫn, sự giáo hóa mới tự tại và mới có nhiều kết quả tốt đẹp cho mình cũng như cho người. Trí huệ là tư lương của giải thoát Niết- bàn.
6- Điều giác ngộ thứ sáu: Hiểu tham lam là căn nguyên của mọi sự đau khổ, oán hận, gian tà. Muốn tận trừ nguồn gốc của tham lam người Phật tử thực hành hạnh bố thí. Muốn bố thí được bình đẳng, tất nhiên phải xa lìa niệm tưởng oán thù cừu thù. Thương yêu mọi loài, không phân biệt người thân kẻ sơ.
7- Điều giác ngộ thứ bảy: Giải thoát tất cả sự ràng buộc của thế gian. Tuy lăn lộn trong cõi đời, mà không bị đời nhiễm trước, trái lại bao giờ cũng tu hành tịnh, hạnh, nguyện, giữ chí xuất gia, duy trì pháp chủng, lợi lạc hữu tình.
8- Điều giác ngộ thứ tám: Quán sát mọi sự thống não đau khổ của chúng sanh để phát lòng Bồ-đề, nguyện cứu muôn loài ra khỏi cảnh đau khổ, bằng cách lăn mình vào đau khổ để thay thế hay ban ân cho chúng sanh. Người Phật tử quán chúng sanh đồng chung một bản thể, cho nên Phật tử nguyện đem lại hạnh phúc cho mọi loài.
III- KẾT LUẬN
Tám điều giác ngộ trên là tám điều giác ngộ của chư Phật và các vị Bồ-tát. Do tám phương tiện trên tác động; nên sau khi công hạnh tu hành đã viên mãn, nghĩa là đã chứng được Niết- bàn, các Đức Phật, các vị Bồ-tát còn trở lại thế giới Ta Bà đau khổ để hóa độ chúng sanh. Tám phương pháp giác ngộ này ngoài năng lực đem lại sự bình tĩnh an lạc cho tâm hồn ở đời hiện tại còn là phương tiện cắt đứt sợi dây ràng buộc chúng sanh vào cảnh sanh tử đau khổ, để chứng quả Niết-bàn an tịnh. Một khi căn nguyên của sanh tử là tham lam, ái dục ích kỷ, ngu si đã đoạn, trí huệ phát triển, lòng thương rộng mở; Chánh đạo hiện tiền, Phật đạo không còn xa nữa.
Vậy nên người Phật tử muốn hưởng hạnh phúc chơn chánh, muốn khỏi bị dục vọng điều khiển, thì phải tu hạnh quán huệ. Quán huệ chiếu liễu, thì vô minh hoại diệt, vô minh hoại diệt thì Chánh giác hiện tiền và đây mới thiệt là nguồn gốc của mọi sự an lạc, giải thoát, Niết-bàn. Vậy nên người Phật tử hàng ngày nên thực hành quán sát tám phương tiện giác ngộ trên này.
_____________
(1) Những người đã phát Bồ-đề tâm cũng gọi là Đại nhơn, vì đã xu hướng hạnh nguyện rộng lớn của Đại thừa.
_____________________________
AN CƯ KIẾT HẠ
I- LỜI NÓI ĐẦU
An cư kiết hạ là pháp tu hành của các vị xuất gia trong ba tháng hạ. Trong ba tháng ấy, Tăng chúng tập họp trong một ngôi chùa, trong một tòng lâm hay ở một chỗ thanh vắng để chuyên tu chuyên học, không làm một việc gì ngoài sự tu học để tăng tiến đạo nghiệp.
II- NGUYÊN NHÂN CỦA PHÁP AN CƯ KIẾT HẠ
1- Ở Ấn Độ một năm chỉ có ba mùa: Xuân, Hạ và Đông. Mùa Hạ là mùa mưa nhiều nhứt. Để tránh mưa gió nạn lụt cho các nhà truyền giáo, Đức Phật chế phép an cư kiết hạ trong ba tháng ấy.
2- Mùa Hạ vì hay mưa gió nên cũng là mùa sanh sản các loài sâu bọ, vì thế muốn các nhà truyền giáo khỏi phải dẫm đạp tàn hại các loài vi sinh trái hạnh từ bi, nên trong ba tháng ấy, các vị xuất gia tu hành không đi ra ngoài.
3- Người xuất gia là phải tu hành. Nhưng muốn tu hành cần phải tìm chỗ an tịnh, chuyên tu thiền quán mới mong có kết quả. Trong một năm phải để 9 tháng truyền bá Chánh pháp rồi còn ba tháng phải hoàn toàn thiên trọng sự tu hành, tấn tu đạo nghiệp, không làm một việc gì ngoài sự tu học.
4- An cư kiết hạ còn có ý nghĩa là tụ hợp Tăng chúng ở chỗ thanh tịnh để cùng nhau sách tấn tu hành, kiểm điểm hành vi cử chỉ, y theo luật Phật mà hành trì.
5- An cư kiết hạ gồm cả tự lợi và lợi tha. Tự lợi: là Tăng chúng xuất gia được an tịnh tu hành học hỏi, tăng trưởng trí đức; Lợi tha: là khỏi phải giết hại các loài sanh vật, tự tu hành có kết quả, thời mọi loài đều được lợi ích.
III- Ý NGHĨA VÀ LỢI ÍCH CỦA AN CƯ KIẾT HẠ
1- Tôn trọng sự sống: Sự sống chỉ có một nên không thể xâm phạm sự sống, dù là sự sống của loài vi sinh, Đức Phật khuyến khích Tăng chúng an cư là muốn Tăng chúng không dẫm đạp giết hại các loài vi sinh sanh trưởng rất nhiều trong ba tháng mưa mùa hạ ở Ấn Độ, tức là giúp Tăng chúng triệt để tôn trọng sự sống.
2- Thương tưởng đồ chúng: Vì thương tưởng đồ chúng, nên Đức Phật không muốn Tăng chúng phải dầm mưa gió trong ba tháng mưa, lại cũng vì thương tưởng đồ chúng nên Đức Phật chú trọng tăng trưởng phước đức trí huệ cho đồ chúng bằng cách bắt buộc Tăng chúng mỗi năm phải thanh tịnh tu hành trong ba tháng, có vậy sự học hành mới tăng tấn.
3- Chú trọng thực hành duy trì giới luật: Chỉ có sự thực hành mới thiết thực hiểu đạo và chứng đạo. Ba tháng an cư kiết hạ là ba tháng Tăng chúng triệt để tuân những cử chỉ oai nghi của một vị xuất gia đúng lời Phật dạy.
IV- AN CƯ KIẾT HẠ LÀ DỊP THỌ TUỔI CỦA CHÚNG TĂNG
Ở đời lấy năm sanh mà kể tuổi. Người xuất gia trong Đạo Phật lấy số kiết hạ làm tuổi. Một người chưa kiết hạ là xem như chưa sanh ra, chưa có tuổi nào. Người kiết hạ hai lần thời được hai tuổi. Và ngày Rằm tháng Bảy, ngày Tự tứ là ngày thọ tuổi của người xuất gia. Người nào hạ lạp cao là được tôn trọng, được ngôi thứ cao trong Tăng chúng, được làm Pháp sư; được nuôi dạy đồ chúng, được truyền giao giới pháp.
V- KẾT LUẬN
Đức Phật dạy rằng bổn phận người xuất gia là phải an cư kiết hạ mỗi năm một lần, cho đến 60 tuổi cũng vẫn phải kiết hạ an cư. Lời dạy này nêu rõ Đức Phật rất chú trọng đến sự thanh tịnh tu hành, sự hành trì giới luật oai nghi một cách rốt ráo.
_____________________________
LỊCH SỬ ĐẠO PHẬT Ở VIỆT NAM
TỪ THỜI ĐẠI DU NHẬP ĐẾN ĐỜI NHÀ LÝ
I- THỜI ĐẠI PHẬT GIÁO DU NHẬP
A- CON ĐƯỜNG TRUYỀN GIÁO CỦA ĐẠO PHẬT Ở ẤN ĐỘ
Phật giáo khởi điểm từ Ấn Độ rồi truyền rộng ra các nước lân cận, do hai đường thủy và bộ: Về đường bộ thì qua miền Trung Á Tế Á như Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa rồi từ Trung Hoa truyền qua các nước Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Về đường thủy thì qua đảo SriLanca, Malaysia, Indonesia, Đông Dương và Trung Hoa.
B- ĐỊA THẾ NƯỚC VIỆT NAM
Cương vực nước Việt Nam hết bảy phần mười cõi Đông Dương, người ta thường gọi chung là Ấn Độ Chi Na. Ấn Độ Chi Na là một bán đảo ở giữa biển Trung Hoa và vịnh Bangale, cấu thành bởi mấy dãy núi, từ Tây Tạng chạy về miền Đông Nam đến biển thì xòe ra như hình rẽ quạt. Giữa những dãy núi ấy là những thung lũng, đầu thì hẹp rồi dần dần tỏa ra thành cao nguyên và bình nguyên. Những con sông lớn như Ménam, sông Khung hay sông Cửu Long và sông Hồng đều phát nguyên từ Tây Tạng chạy theo các thung lũng ấy, rồi bồi thành một dãy Trung Châu ở dọc bờ biển từ Bắc đến Nam quanh co như hình chữ S.
Cứ xét theo hình thể ấy, thì nước Việt Nam ta nằm giữa hai nước Ấn Độ và Trung Hoa nên đồng thời hấp thụ ảnh hưởng văn minh của cả hai nước láng giềng ấy, nhưng vì sao ngày nay riêng nước Việt Nam lại chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa. Còn Lào và Campuchia lại hoàn toàn chịu ảnh hưởng Ấn Độ? Chính vì do hai nguyên nhân sau đây:
1- Về phương diện địa dư: Việt Nam kế cận với Trung Hoa, giữa hai nước ấy không có những trở ngại về địa thế; trái lại, đối với Ấn Độ, nước Việt Nam bị gián cách nhiều nước khác và đối với Lào, Campuchia, bị gián cách bởi dãy núi Trường Sơn.
2- Về phương diện lịch sử: Nước Việt Nam về thời bấy giờ do người Trung Hoa cai trị; trái lại, Lào, Campuchia chỉ trực tiếp chịu ảnh hưởng thừa truyền của Thái Lan mà Thái Lan lại là một nước hoàn toàn hấp thụ ảnh hưởng của Ấn Độ. Vả lại, dân hai xứ Lào, Campuchia tuy chịu ảnh hưởng Ấn Độ nhiều hơn, nhưng vì dân hai xứ ấy không đủ khả năng truyền bá và khai hóa; trái lại, người Trung Hoa rất có khả năng thành thử hiện nay nước Việt Nam chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa nhiều hơn.
C- THỜI ĐẠI DU NHẬP
Thông thường người ta chỉ biết Đạo Phật Việt Nam có từ đời Đinh. Nhưng xét ra đời Đinh, Phật giáo đã được nhận làm quốc giáo và triều chính một phần lớn do các Tăng sĩ đảm đương. Như thế Phật giáo đến đời Đinh hẳn đã được thịnh đạt lắm rồi.
Dưới đây là những sử liệu về thời đại Phật giáo du nhập Việt Nam:
1- Những thiên truyện ký của các Tăng sĩ Việt Nam viết từ thế kỷ thứ XIII và XIV có chép: “Chính đời nhà Hán thế kỷ thứ II, thứ III đã có các Đạo sĩ ở Bắc như ngài Ma-ha-kỳ-vực (Marijivaka), Khương Tăng Hội (K’ang Seng Houei) và Mâu Bác (Méou Pô), Ngài thì do đường thủy, Ngài thì do đường bộ, lần lượt đến truyền giáo ở Việt Nam”.
2- Truyện Đàm Thuyên Pháp sư có chép: Vua Cao Tổ nhà Tùy ngỏ ý cùng Pháp sư muốn dựng chùa xây tháp khắp đất Giao Châu (Quốc hiệu nước Việt Nam đời Bắc thuộc) để truyền bá Đạo Phật. Nhưng Pháp sư trả lời: “Cõi Giao Châu có đường thông sang Thiên Trúc gần hơn ta. Khi Phật giáo chưa du nhập vào đất Giang Đông này (Phật giáo tuy truyền vào Trung Quốc từ năm 67 sau Công nguyên, nhưng lâu về sau mới phổ cập tới Giang Đông) mà cõi ấy đã xây được hơn 20 ngọn bảo tháp độ hơn 500 Tăng sĩ, dịch được hơn 15 bộ Kinh rồi. Bây giờ có vị Ma-ha-kỳ-vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương và Mâu Bác đến truyền đạo… Nay Ngài muốn bố thí một cách bình đẳng, phái chư Tăng sang truyền đạo, nhưng họ đã có đủ rồi, ta không cần phải sang nữa”.
3- Sách Pháp Vụ Thực Lục có chép: Vào hồi thế kỷ thứ III có một ông tên là Kaudra gốc ở Ấn Độ, giòng Brahmanes qua Giao Châu một lần với ngài Ma-ha-kỳ-vực để truyền đạo.
Những sử liệu trên cho chúng ta rõ: Đạo Phật Việt Nam không phải có từ đời nhà Đinh mà đã có từ đời Hán bên Trung Hoa (cuối thế kỷ thứ II và đầu thế kỷ thứ III) và những vị đến truyền giáo đầu tiên ở nước Việt Nam ta là ngài Ma-ha-kỳ-vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương và Mâu Bác. Trong số bốn Ngài chỉ có ngài Mâu Bác là người Trung Hoa, còn ba Ngài kia đều là người Ấn Độ. Ngài Mâu Bác là người truyền Phật giáo đầu tiên ở đất Giao Châu vào năm 189 sau Công nguyên. Vậy ta có thể kết luận rằng: Phật giáo du nhập ở nước Việt Nam vào khoảng cuối thế kỷ thứ II vậy.
D- CÁC MÔN PHÁI ĐƯỢC DU NHẬP
Xét Phật giáo ở Việt Nam sau thời đại du nhập, phần nhiều chịu ảnh hưởng Phật giáo Trung Hoa nên bao nhiêu Kinh điển, tông phái đều do Trung Hoa truyền đến. Những tông phái được sùng chuộng hơn hết cả lúc bấy giờ là Thiền tông (Tông tu thiền trực chỉ) tông này lại được truyền vào Việt Nam trước hết, do ngài Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci) truyền đến (580) và chính Ngài là Sơ Tổ Thiền tông Việt Nam. Sau lại có ngài Pháp Hiền Thiền sư được kế truyền và thành lập một phái.
Đến đời Đường (820) lại có ngài Vô Ngôn Thông ở Trung Quốc sang truyền giáo, lập thành phái Thiền tông thứ hai, rồi kế đó phái Thảo Đường, Tào Động, Lâm Tế v.v… lần lượt truyền đến Việt Nam. Xem thế, trước sau chỉ có phái Thiền tông là gây ảnh hưởng mạnh hơn cả.
II- PHẬT GIÁO QUA CÁC TRIỀU ĐẠI
A- PHẬT GIÁO ĐỜI HẬU LÝ NAM ĐẾ (571 – 602) VÀ ĐỜI BẮC THUỘC THỨ BA (603 – 939)
Từ khi Phật giáo truyền vào Việt Nam cho đến Tiền Lý Nam Đế kể ra trên 300 năm (189 đến 544 – 548) nhưng vẫn còn nằm trong thời kỳ phôi thai chưa có gì đáng gọi là thịnh hành lắm. Đến đời Hậu Lý Nam Đế (571 đến 602) và Bắc thuộc lần thứ ba (603 đến 939) Phật giáo mới bắt đầu bước vào thời thịnh đạt, vì lúc bấy giờ có ngài Tỳ-ni-đa-lưu-chi ở Trung Hoa sang (580) đem Thiền tông truyền bá và được người Việt Nam hết sức sùng mộ. Do đó, ảnh hưởng Phật giáo được lan rộng rất mạnh ở nước Việt Nam lúc bấy giờ. Điều đáng chú ý hơn hết là ba đoàn truyền giáo ở nước Việt Nam trong đó hai đoàn trước hầu hết là người Trung Hoa, nhưng đoàn thứ ba lại hoàn toàn là sáu vị Pháp sư người Việt. Bốn Ngài ở Giao Châu: Vân Ký Thiền sư, Mộc-xoa-đề-bà, Khuy Sung Pháp sư, Huệ Diệm Pháp sư và hai người Ái Châu: Trí Hạnh Thiền sư, Đại Thặng Đăng Thiền sư.
B- PHẬT GIÁO ĐỜI ĐINH (968 – 980) VÀ ĐỜI TIỀN LÊ (980 – 1009)
Đến đời Đinh, Phật giáo có thể là độc tôn, tất cả văn hóa, triều chính trong nước phần lớn đều thuộc hạng Tăng sĩ, cho nên Đạo Phật được phổ cập dễ dàng trong quần chúng, mặc dầu Nho giáo và Lão giáo đã truyền vào từ lâu. Về triều chính thì có ngài Ngô Chân Lưu làm đến chức Khuông Việt Thái sư, ngoài ra còn có ngài Trương Ma Ni làm Tăng lục Đạo sĩ và Pháp sư Đặng Huyền Quang làm Sùng Châu uy nghi.
Đến khi nhà Đinh mất, nhà Tiền Lê (Lê Đại Hành) lên kế vị, chống lại quân nhà Tống (980). Trong giai đoạn này, các Tăng sĩ lại được biệt đãi hơn vì chính vua Lê Đại Hành vẫn thường triệu thỉnh các Tăng thống vào triều để hỏi việc nước và việc truyền bá Phật giáo.
Điều đáng chú ý hơn cả là trong khi nước ta đã hòa với nước Tống, vua Lê Đại Hành liền cho sứ thần qua thỉnh Kinh “Đại Tạng” và “Cửu Kinh” để đem về truyền bá. Đấy là lần cầu Kinh thứ nhứt ở Việt Nam.
C- PHẬT GIÁO ĐỜI NHÀ LÝ (1010 – 1225)
1- Lý Thái Tổ (1010 đến 1028)
Tên húy là Lý Công Uẩn con nuôi của sư Lý Khánh Vân ở chùa Cổ Pháp thọ giới với ngài Vạn Hạnh Thiền sư. Sau khi vua Lê Ngọa Triều mất, Ngài lên kế vị lấy hiệu Thuận Thiên, đóng đô ở thành Thăng Long (Hà Nội). Lý Thái Tổ là một Phật tử thuần thành nên sau khi lên ngôi, Ngài hết sức chú trọng đến sự truyền bá Phật giáo. Ngài đã dựng rất nhiều ngôi chùa và độ rất nhiều Tăng chúng. Đáng chú trọng hơn cả là đến năm thứ 9 (1019) Ngài sai sứ thần qua Trung Quốc thỉnh Kinh đem về cất tại Kinh viện Đại Hưng.
Triều đại này có thể nói rằng một triều đại hết sức thái bình, nói đến Phật giáo thì xưa nay chưa bao giờ thịnh đạt như thế. Vả lại, các vị Thiền sư lúc bấy giờ, như ngài Vạn Hạnh Thiền sư, Đa Bảo Thiền sư, Sùng Phạm Thiền sư là những bậc danh Tăng mà nhà vua rất tín trọng. Cho nên sự truyền giáo của các Ngài rất dễ dàng mau chóng. Những vị danh Tăng này đều ở trong hai phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi và Vô Ngôn Thông.
2- Lý Thái Tông (1028-1054)
Lý Thái Tông nối ngôi Thái Tổ lấy niên hiệu là Thiên Thành, Ngài cũng là người rất sùng mộ Đạo Phật. Sau khi đánh dẹp giặc Chiêm ở đất Hoan Châu (Nghệ An) về, Thái Tông sắc lập 95 ngôi chùa cử lễ khánh thành hạ chiếu miễn thuế cho dân trong nước một năm. Đến năm 1034 Thái Tông đổi niên hiệu là Thông Thụy; lúc bấy giờ nước Việt Nam được nhà Tống ban Đại Tạng Kinh và tự sai sứ đưa qua cho ta; thật là một ảnh hưởng khả quan cho Phật giáo nước nhà, mà cũng là một vinh dự tốt đẹp của triều đình Việt Nam lúc bấy giờ.
Lại trong khoảng 1034-1038, vua thường đến hỏi đạo với ngài Thuyền Lão Thiền sư và tự xưng làm đệ tử. Sau vua được ngài Thuyền Lão truyền tâm pháp tức là người thứ bảy, trong đời truyền thống thứ bảy của phái Vô Ngôn Thông.
Lúc bấy giờ có các vị Cao Tăng như ngài Huệ Sinh Thiền sư, Định Hương Trưởng lão, Thuyền Lão Thiền sư là những bậc danh đức tu hành và có công truyền bá Đạo Phật nhứt trong triều đại Lý Thái Tông này.
3- Lý Thánh Tông (1054 đến 1072)
Thánh Tông nối ngôi Thái Tông, đổi quốc hiệu là Đại Việt và lấy niên hiệu là Long Thụy Thái Bình. Ngài là một ông vua rất sùng mộ Đạo Phật. Năm Long Thụy thứ 5 (1059) Ngài dựng chùa xây tháp và đúc một quả chuông nặng 12.000 cân đồng, tại làng Bảo Thiên thuộc tỉnh Hà Nội, quả chuông ấy hiện nay vẫn còn.
Đến năm Kỷ Dậu (1069) phái Thảo Đường lại xuất hiện ở Việt Nam, do ngài Thảo Đường đệ tử ngài Tuyết Đậu Minh Giác bên Trung Quốc truyền sang.
Kế đó Lý Thánh Tông thọ giáo với Ngài. Sau được truyền tâm pháp làm đệ tử đầu tiên của phái Thảo Đường. Phái Thảo Đường tức là phái Thiền tông thứ ba ở nước ta vậy.
Lý Thánh Tông là một tu sĩ của Phật giáo, lại được đắc truyền tâm pháp. Như vậy cũng thấy rõ ảnh hưởng lớn lao của Phật giáo đối với dân chúng Việt Nam lúc bấy giờ.
4- Lý Nhân Tông (1072 đến 1127)
Lý Nhân Tông nối ngôi Lý Thánh Tông lên làm vua, mặc dầu nhà vua tuổi còn nhỏ nhưng rất thông minh anh dũng. Ngài lại rất hâm mộ Phật giáo. Cho nên ngoài công việc triều chính ra,Ngài còn luôn luôn lo truyền bá Phật giáo. Vả lại, lúc bấy giờ có nhiều vị danh Tăng lỗi lạc như ngài Viên Chiếu Thiền sư soạn quyển “Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn, Tán Thiện Giác Kinh v.v…”.
Còn ngài Ngộ Ấn Thiền sư thì chuyên môn diễn giảng, do đó Phật giáo rất được quần chúng hướng mộ và ảnh hưởng lan rộng khắp nơi.
5- Lý Thần Tông (1128 đến 1138), Lý Anh Tông (1138 đến 1175), Lý Cao Tông (1176 đến 1210) và Lý Huệ Tông (1211 đến 1225).
Trong bốn triều đại này, Phật giáo vẫn được thịnh đạt, nhưng không có gì được xuất sắc lắm.
Có các vị cao Tăng như ngài Minh Không Thiền sư và Thông Biện Thiền sư, thuộc đời Lý Thần Tông. Ngài Bảo Giám Thiền sư và ngài Viên Thông Thiền sư thuộc đời Lý Anh Tông. Ngài Trương Tam Tạng Thiền sư thuộc về đời Lý Cao Tông. Qua đời Lý Huệ Tông thì vận nước suy đồi, triều đình dấy loạn, dân sự không an. Nhà vua do đó sanh lòng chán nản, nên vào năm Kiến Gia thứ mười bốn (1224) Ngài truyền ngôi cho con gái là Công chúa Phật Kim, tức Lý Chiêu Hoàng, rồi xuất gia tu ở chùa Chân Giáo tự xưng là Huệ Quang Đại sư.
Tóm lại, Phật giáo được thịnh hành nhứt ở Việt Nam chính đời nhà Lý. Vì trong 215 năm trời, trải qua 8 đời truyền kế, vua nào cũng sùng tín Đạo Phật. Lại được rất nhiều vị danh Tăng ra đời tận tâm vì Phật sự, cho nên ảnh hưởng của Đạo Phật trong nhân gian được lan rộng và lợi lạc rất nhiều.
_____________________________
NHỮNG MẨU CHUYỆN ĐẠO
1- NHỮNG NGƯỜI MÙ SỜ VOI
Có ông vua bảo vị đại thần rằng: “Khanh đem một con voi rồi để cho các người mù tới rờ xem thử thế nào”. Vị đại thần vâng lời tập họp các người mù lại, đem voi ra, biểu các người mù lấy tay rờ; mỗi người rờ một bộ phận của con voi. Vua bèn kêu các người mù mà hỏi rằng: “Con voi như thế nào?”. Người mù rờ tai nói con voi như cái quạt, người rờ đầu nói con voi như hòn đá, người rờ vòi nói con voi như cái gậy, người rờ chân nói con voi như cổ chày, người rờ lưng nói con voi như cái giường, người rờ bụng nói con voi như cái ghè, người rờ đuôi nói con voi như cái chổi.
Này Thiện nam tử ! Như các người mù kia không nói trúng toàn thể con voi, nhưng cũng không nói ra ngoài toàn thể con voi. Các tướng trạng như vậy không phải là con voi, nhưng ngoài tướng trạng ấy thời không riêng có con voi. Này Thiện nam tử ! Vua ví dụ cho Đức Như Lai Chánh
Biến Tri. Vị đại thần ví dụ cho Kinh Đại Phương Đẳng, Đại Niết Bàn, con voi ví dụ cho Phật tánh. Các người mù rờ voi thí dụ cho hết thảy chúng sanh vô minh.
Kinh Đại Niết Bàn
2- TRÀNG HOA BONG BÓNG
Xưa có vị Công chúa được vua cưng quý hết sức. Một hôm trời mưa, thấy bong bóng nước nổi lên mặt hồ, lấy làm thích ý, liền đòi lấy bong bóng nước ấy làm một tràng hoa để mang trên đầu. Vua đáp: “Bong bóng nước đâu có thể cầm bắt, làm sao có thể kết thành tràng hoa được”. Nàng Công chúa không chịu, dọa vua nếu không được thì sẽ tự tử. Vua lo lắng, cho người mời tất cả người thợ tài giỏi nhứt trong nước, nhưng ai cũng bó tay. Sau có người thợ già nói rằng: “Tôi có thể làm được, nhưng phải mời Công chúa đến chứng kiến”. Và người thợ thưa với Công chúa rằng: “Tôi có tài kết bong bóng nước làm thành tràng hoa, nhưng không thể phân biệt bong bóng tốt xấu; vậy xin Công chúa tự thân lựa những bong bóng đẹp rồi đưa cho tôi kết thành tràng hoa”. Công chúa tự tay cúi xuống nắm bong bóng nhưng bắt cả buổi mà không được cái nào cả. Sau cùng mỏi mệt quá, nên phải bỏ đi. Nàng Công chúa mới hiểu bong bóng nước làm mê hoặc mắt người, tuy có hình chất, nhưng sanh ra rồi diệt ngay. Thân người là giả dối, vui ít khổ nhiều, sanh sanh diệt diệt, không thể tồn tại lâu dài.
Trích Kinh Thủy Thượng Bào
3- GẦN PHẬT VỚI XA PHẬT
Một thời Đức Phật ở nước Xá-vệ, tại tịnh xá Kỳ Hoàn thuyết pháp cho chư Thiên nghe. Lúc bấy giờ, ở nước La-duyệt-kỳ có hai vị tân học Tỳ- kheo muốn yết kiến Đức Phật. Giữa hai nước ấy có một khoảng đồng rộng, không có người ở, lại gặp thời nắng hạn, nên suối hồ đều cạn. Hai người đi ngang qua bị khát nước, chỉ gặp được vũng nước nhỏ thì thấy những loài trùng, không thể uống được. Hai người mới bàn với nhau: “Chúng ta từ xa lại cốt trông mong chiêm ngưỡng Đức Phật, không ngờ ngày nay bị chết khát ở giữa đường”. Một người nói rằng: “Thôi ta hãy tạm uống cho khỏi chết có vậy mới gặp được Phật. Vả lại, ta uống cũng không ai biết cả”. Người kia đáp: “Giới luật Phật chế cấm không được uống nước có trùng, chính lấy nhơn từ làm gốc. Nếu giết hại chúng sanh để tự sống thì dầu thấy Phật cũng không ích gì. Thà rằng giữ giới chịu chết, chớ không phạm giới mà sống”. Người đầu theo ý riêng mình uống nước cho hết khát và đi đến chỗ Phật ở. Người thứ hai không chịu uống nên phải chết vì khát, nhưng lại được sanh cõi trời Đao Lợi. Nhờ suy nghĩ nên tự biết ở kiếp trước giữ giới không phạm nên được sanh lên cõi trời Đao Lợi, thật là do lòng tin mạnh nên phước báu chẳng xa vậy. Nghĩ đoạn, bèn đem hương hoa đến lễ Phật rồi đứng hầu một bên. Còn người uống nước phải cực khổ trải qua nhiều ngày mới đến chỗ Phật ở. Thấy đấng Chí Tôn oai nghiêm, người liền cúi đầu đảnh lễ, khóc lóc bạch rằng: “Con còn có người bạn cũng muốn đến yết kiến Phật, chẳng may giữa đường bị mệnh chung, dám mong Đức Thế Tôn biết cho”. Đức Phật trả lời: “Ta đã rõ rồi”, bèn lấy tay chỉ vị tiên nhơn đứng một bên mà nói rằng: “Người tiên nhơn này chính là bạn của ngươi đó. Người này vì giữ trọn giới luật nên được sanh lên cõi trời và được gặp Ta trước ngươi”. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn lấy tay chỉ vào người kia bảo rằng: “Ngươi tuy thấy hình Ta mà không giữ giới luật của Ta, thời tuy ngươi thấy Ta mà như không thấy. Người kia tuy cách xa Ta ngàn dặm nhưng vẫn giữ được giới luật, thời người ấy tất đứng trước mặt Ta”. Lúc bấy giờ, Đức Phật nói bài kệ rằng:
Học nhiều lại nghe nhiều
Hai đời được ngợi khen
Học ít lại nghe ít
Hai đời gặp đau khổ
Phàm học nên nghe nhiều
Dầu gặp nhiều tai nạn
Trì giới không trái phạm
Chỗ sở nguyện được thành
Giữ giới không chu toàn
Chỗ sở nguyện bị tan mất
Xét lý nhân yếu nghĩa
Không gì đáng can ngại.
Lúc bấy giờ, vị Tỳ-kheo nghe bài kệ xong bèn tự xấu hổ cúi đầu xin sám hối, yên lặng suy nghĩ lời Phật dạy. Còn vị Tiên nhơn tâm hoan hỷ chứng được Pháp nhãn, chúng hội hoan hỷ phụng hành.
4- CON DAO TRONG TÂM
Một thời ở thành Xá-vệ nước Ấn Độ, Đức Phật đến hóa độ cho một gia đình kia, hai vợ chồng đều tham lam độc ác, không biết tôn trọng đạo đức. Ngài liền hóa một vị Đạo nhơn đến khất thực. Lúc ấy, người chồng đi vắng, người vợ ở nhà thấy vị Đạo nhơn vào liền mắng chửi ầm lên. Vị Đạo nhơn nói:
– “Tôi là người tu hành, chỉ xin ăn tự sống. Lòng chỉ mong gia chủ cho bát cơm để đỡ đói lòng, sao lại mắng chửi tôi đủ điều như vậy?”.
Người vợ tức giận hét ngược lên thì người chồng vừa về, trong tay cầm sẵn con dao, chẳng nói gì, người chồng xông tới định chém vị Đạo sĩ. Bỗng một bức thành pha lê hiện lên bao bọc người Đạo sĩ, bức thành trong sáng kiên cố, không có cửa. Người chồng đến xô đạp đâm chém cũng không sao chuyển nổi.
Người chồng liền nói: “Ông mở cửa cho tôi vào với”. Vị Đạo sĩ trả lời: “Được, nhưng ông hãy quăng con dao đi đã”.
Người chồng tự nghĩ: “Mình to con như thế này, còn người Đạo sĩ bé nhỏ thế kia, mình dùng hai tay không, cũng đủ giết chết vị Đạo sĩ”. Nói đoạn người ấy liền quăng con dao đi xa, nhưng bức thành pha lê vẫn y nguyên như cũ. Người chồng tức giận hét lên: “Tôi đã quăng con dao đi rồi, sao không mở cửa tôi vào”.
Vị Đạo sĩ đáp: “Không, tôi không nói ông quăng con dao trong tay ông, tôi muốn ông quăng con dao trong tâm ông kia”.
Người chồng giật mình kinh sợ, nhận thấy vị Đạo sĩ hiểu rõ tâm ý thầm kín của mình, liền cúi xuống lạy tạ, ăn năn hối lỗi. Bức thành bỗng biến mất, vị Đạo sĩ hiện thành Đức Phật hào quang chói sáng rực rỡ, và tiếp độ cho hai vợ chồng.
5- TẠI SAO PHẢI NIỆM PHẬT?
Thành Thất-la-phiệt có một ông Hoàng tánh rất hung bạo. Thêm vào đó, quyền thế và địa vị của ông có thể giúp ông thủ tiêu tội ác trước pháp luật. Chưa một lời phải, một đạo giáo nào cảm hóa được ông. Một hôm ông gặp Phật khi Phật du hóa xứ này. Mới thấy, lòng ông bỗng cảm phục như voi dữ trước quản tượng. Ngài có dạy ông vài lời sơ lược: “Hãy tưởng niệm Phật Đà, hãy từ bi thương người, hùng lực cứu người”. Ông cung kính vâng lời. Nhưng khi về đến nhà, vừa thấy người hành khất, ông liền đùng đùng nổi giận. Lời vàng của Phật không còn trong lòng ông nữa. Khi ông toan đánh đuổi người, bỗng sực nhớ lại hình dáng từ nghiêm của Phật, ông liền dịu lại nhưng không bố thí chút gì. Tối hôm đó vợ ông lấy làm lạ, gạn hỏi đầu đuôi. Ông bèn tuần tự thuật lại. Nhờ thuật lại ông nhớ lại rõ ràng hình dung Đức Phật và lời Ngài dạy. Đêm hôm ấy ông suy nghĩ mông lung. Ông nghĩ: “Nhớ Phật, phải nhớ đến người nghèo khổ. Tưởng Phật phải tưởng đến người nghèo khổ”. Rồi mới sáng ông liền đi tìm Phật. Giữa đường gặp một người hành khất ốm liệt bên vệ đường, ông suy nghĩ, ông đến ân cần hỏi han và dốc hết tiền trong túi ra cho. Người ấy e sợ cám ơn rối rít. Nhưng ông chỉ bảo: “Vì tưởng nhớ Phật nên tôi giúp anh. Anh nhận tiền này khiến tôi được phước, thế là tôi mang ơn anh chớ nào anh có mang ơn gì tôi”. Người hành khất nghe, lấy làm lạ, vì không lạ gì tánh nết của ông và uy danh của Đức Phật nữa. Bỗng nhiên người ấy cất tiếng niệm “NAM MÔ PHẬT ĐÀ” (kính lễ đấng Giác ngộ). Ông Hoàng cũng bất giác niệm theo và đi mau tìm Phật. Khi gặp được Ngài, ông thuật rõ đầu đuôi mọi việc. Nghe xong, Đức Phật mỉm cười hiền từ bảo: “Khi niệm Phật ông hãy tưởng niệm người nghèo khổ. Tưởng niệm người nghèo khổ là tưởng niệm chư Phật đó”.
Kinh Tạp Bảo Tạng
Giới là bậc Đại sư của các người, nếu Ta ở đời, cũng không khác giới vậy.
KINH DI GIÁO