
TRÒN NHIỆM VỤ
Hồi ký của một Quản Thủ Thư Viện Canada gốc Việt
Lâm Vĩnh-Thế
Dàn trang: Nguyễn Thành
Bìa: Uyên Nguyên Trần Triết
Nhân Ảnh Xuất Bản 2021
ISBN: 9781989993552
Copyright © 2021 by Lam Vinh-TheLâm Vĩnh-Thế, M.L.S. Librarian Emeritus
Đại Học Saskatchewan, CANADA Điện thư: Hoaivietnhan1981@gmail.comTốt nghiệp Ban Sử-Địa, Đại Học Sư Phạm Sài Gòn năm 1963, tác giả Lâm Vĩnh-Thế đã dạy trung học trong nhiều năm trước khi nhận được học bổng đi du học tại Hoa Kỳ về thư viện học. Năm 1973, sau khi tốt nghiệp bằng Cao Học Thư Viện Học (M.L.S. = Master of Library Science) tại Đại Học Syracuse, ông về nước và đắc cử chức vụ Chủ Tịch, Ban Chấp Hành Hội Thư Viện Việt Nam, nhiệm kỳ 1974. Cũng trong năm này, ông được cử nhiệm làm Trưởng Ban, Ban Thư Viện Học, Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn, thuộc Viện Đại Học Vạn Hạnh, cho đến khi Sài Gòn thất thủ. Tháng 9-1981, cùng với gia đình, ông rời Việt Nam đi định cư tại Canada. Từ năm 1982 cho đến năm 1997, ông phục vụ tại các thư viện và trung tâm thông tin của các chính phủ liên bang và tỉnh bang của Canada. Tháng 9-1997, ông về làm việc cho Đại Học Saskatchewan, với chức vụ Trưởng Ban Biên Mục (1997-2000; Head, Cataloging Department) và sau đó là Trưởng Khối Dịch Vụ Kỹ Thuật (2001-2003; Head, Technical Services Division). Ông đã có nhiều công trình nghiên cứu về thư viện học đăng trong các tạp chí chuyên môn tại Bắc Mỹ và Úc Châu. Ông nghỉ hưu từ tháng 7-2006 và được Đại Học Saskatchewan ban cho danh hiệu Librarian Emeritus.
Bên cạnh các hoạt động trong ngành thư viện học, tác giả Lâm Vĩnh-Thế còn thực hiện nhiều công trình nghiên cứu sử về Việt Nam Cộng Hòa và Chiến Tranh Việt Nam, đặc biệt chú trọng vào giai đoạn đầy xáo trộn của những năm 1963-1967 đã đưa đến việc Hoa Kỳ quyết định tham chiến vào năm 1965. Những nghiên cứu đó đã được đúc kết trong tác phẩm của ông mang tựa đề là Việt Nam Cộng Hòa, 1963-1967: Những Năm Xáo Trộn, do nhà Hoài Việt xuất bản năm 2010, tại Hamilton, Ontario, Canada. Ấn bản tiếng Anh, xuất bản lần thứ nhì, với nhiều sửa chữa và cập nhật, đã được nhà Routledge (Anh Quốc) xuất bản vào cuối năm 2020 với tựa đề The History of South Vietnam: the Quest for Legitimacy and Stability, 1963-1967.
Ông là dịch giả của quyển The Price of Freedom: Exodus and Diaspora of Vietnamese People, nguyên tác Việt ngữ Giá Tự Do của tác giả Lâm Vĩnh Bình, ấn bản lần thứ nhì, do Người Việt Books xuất bản năm 2017 tại Hoa Kỳ. Ông cũng là dịch giả và soạn giả của quyển Vietnam, Territoriality, and the South China Sea: Paracel and Spratly Islands, do nhà Routledge xuất bản năm 2019, nguyên tác Việt ngữ Những bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa của tác giả Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, do nhà Xuất Bản Giáo Dục xuất bản tại Việt Nam vào năm 2014.
LỜI TỰA
Cuốn hồi ký này của anh Lâm Vĩnh-Thế có thể coi là một mẫu mực của thể loại kể lại chuyện của đời mình. Vâng, anh kể chuyện riêng tư của cuộc đời anh, về nguồn gốc gia đình, về việc đi học từ tiểu học lên đến đại học, ra đời đi làm việc, rồi đi du học, rồi đến việc ứng dụng sở học vào công việc trong suốt phần còn lại của đời mình, cho tới khi anh gõ máy viết cuốn hồi ký này lúc đã về hưu. Hồi ký là việc riêng tư, cái đó đã hẳn, nhưng người đọc sẽ thấy ngay một đặc điểm: trong cái riêng ấy đầy những cái chung mà người đọc sẽ thích thú được biết.
Ngay việc nguồn gốc dòng họ của anh cũng đã mang tính lịch sử và xã hội. Chỉ cần đọc một câu này đã thấy ngay tính cách ấy:
“Ông nội tôi, cụ Lâm Văn Ngọ (1882-1960), là một hậu duệ đời thứ ba của một gia đình người Minh Hương giàu có lớn ở Chợ Lớn (khu người Hoa của thành phố Sài Gòn), đã làm việc trong nhiều năm với tư cách là Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút cho tờ nhựt báo tiếng Việt Lục Tỉnh Tân Văn (LTTV) cho đến khi tờ báo đình bản vào năm 1944.”
Câu ngắn ngủi ấy cho biết tác giả Lâm Vĩnh-Thế là hậu duệ của một lớp người Trung Hoa sang lập nghiệp tại miền Nam Việt Nam khoảng cuối thế kỷ 18, và đến đời ông nội của tác giả thì đã có lúc nắm giữ một cơ quan ngôn luận tiếng Việt nổi tiếng có mặt tại Sài Gòn từ đầu thế kỷ 20.
Việc đi học của tác giả thì song song với những dòng hồi ký về việc học hành của mình, tác giả đã mô tả cả một hệ thống giáo dục do người Pháp đặt ra với đặc tính mà lâu nay nhiều người đã chỉ trích là nhằm hạn chế sự hiểu biết rộng rãi của dân chúng Việt Nam:
“Trái ngược hẳn với lối giáo dục của Hoa Kỳ là một nền giáo dục đại chúng (mass education) nhằm giúp cho gần như tất cả học sinh đều có thể tốt nghiệp bậc trung học, hệ thống giáo dục của Pháp là nhằm vào việc đào tạo nhân tài (elite education) với rất nhiều kỳ thi khó khăn để loại bỏ dần những học sinh học kém.”
Anh đã chứng minh thế nào là “rất nhiều kỳ thi khó khăn” trong nền giáo dục mà người Pháp áp dụng trên đất nước Việt Nam: vào học lớp Năm, lớp đầu tiên của bậc tiểu học mới được ba năm là đụng ngay kỳ thi đầu tiên, Sơ Đẳng Tiểu Học. Qua được kỳ thi này, học thêm hai năm nữa, cuối năm lớp Nhất, phải qua một kỳ thi lớn: thi Tiểu Học mà thời trước thường gọi là thi Ri Me (Primaire), là cửa ngõ để vào bậc Trung học. Sau bốn năm phải đậu bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp mới lên Trung học Đệ Nhị Cấp được. Học mới được hai năm đã phải thi Tú Tài I. Qua Tú Tài I, học một năm nữa phải thi đậu Tú Tài II mới gọi là hoàn tất bậc Trung học. Tính ra một người phải qua năm kỳ thi được tổ chức cho cả nước cùng một thời điểm trong 12 năm học thì mới tới ngưỡng cửa của bậc Đại Học. Tới đây thì có thể ghi danh học các phân khoa Đại Học, trừ một số trường đặc biệt như Đại Học Sư Phạm, Quốc Gia Hành Chánh, Y, Nha, Dược, thì phải qua một kỳ thi tuyển.
Tác giả đã tính toán: “Có thể nói trong 100 em học sinh cùng vào học Lớp Năm ở bậc tiểu học, khi vào được năm thứ nhứt của các trường đại học, có lẽ chỉ còn lại độ 5-10 em mà thôi. 90-95 em kia đã bị các kỳ thi loại bỏ dần dần hết”.
Trên đây chỉ là một thí dụ để diễn tả cách viết hồi ký của tác giả: khi nói về việc học hành của chính mình, đã không quên mô tả tỉ mỉ cả nền giáo dục mà mình đã phải trải qua. Có lẽ tác giả ý thức rằng muốn hiểu câu chuyện của một người thì trước hết phải hiểu khung cảnh, môi trường mà người ấy sống và sinh hoạt. Nhưng tác giả không chỉ mô tả bằng chữ, anh có rất nhiều hình ảnh để làm chứng cho những điều anh nói. Anh đã cho chúng ta xem những hình ảnh của gia đình thuộc thế hệ trước, hình ảnh của chính anh thưở bé cùng gia đình, và đặc biệt là hình chụp của tất cả văn bằng của anh từ nhỏ tới lớn. Những văn bằng ấy ngày nay có thể được xem như tài liệu cổ: văn bằng Sơ Đẳng Tiểu Học của kỳ thi ngày 19 tháng 6 năm 1950; văn bằng Tiểu Học kỳ thi 22-6-1953; bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp kỳ thi ngày 22-6-1957; bằng Tú Tài – phần I năm 1959, phần II năm 1960.
Những văn bằng này của miền Nam chúng ta, ngày nay là những chứng tích rất quý, vì chúng ta đã trải qua một cuộc chiến dài, và một kết thúc thua cuộc, những mất mát giấy tờ tài liệu là không tránh khỏi, nhất là đối với những người rời nước đi ra sinh sống tại nước ngoài.
Nhưng quãng đời đi học chỉ là giai đoạn “khởi động” của cuộc đời nhiều thay đổi của tác giả về sau. Tác giả đã tốt nghiệp ban Sử Địa tại Đại Học Sư Phạm Sài Gòn vào năm 1963, và đi dạy học. Nhưng dạy môn Sử Địa cho bậc Trung học có vẻ không phải là những gì số phận dành cho tác giả như một nghề nghiệp chính trong suốt đời mình. Năm 1971, anh Thế đã được học bổng của USAID (United States Agency for International Development) qua Hoa Kỳ học về môn Thư viện tại Đại học Syracuse, tiểu bang New York. Về nước năm 1973, với bằng Master of Library Science (MLS), năm sau anh Thế cùng một số đồng nghiệp từ Mỹ học xong trở về nước ra ứng cử các chức vụ của Ban Chấp Hành Hội Thư Viện Việt Nam. Anh đã đắc cử chức vụ Chủ tịch Ban Chấp Hành Hội Thư Viện Việt Nam, nhiệm kỳ 1974, với một chương trình hoạt động tích cực để ngành thư viện được tổ chức tốt hơn, hầu phục vụ quần chúng hữu hiệu hơn.
Qua cuốn sách này, tôi được biết là anh Thế khi đi du học tại Đại Học Syracuse, đã có được một vị Thầy hướng dẫn (academic advisor) có lương tâm chức nghiệp cao, và hết sức dạy dỗ, hướng dẫn anh để cho anh chọn những môn học rất có ích cho mục tiêu học tập do anh quyết định. Kết quả là anh đã được đào tạo thành một Quản Thủ Thư Viện chuyên ngành biên mục, cộng thêm với những kiến thức anh đã hấp thu được nơi trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn đã giúp anh Thế thành một giảng viên giỏi với cách giảng dạy tân tiến thu thập từ các vị Thầy của anh ở Việt Nam cũng như ở Mỹ.
Đại học Vạn Hạnh (ĐHVH), nơi kẻ viết những dòng này cũng vừa tốt nghiệp ngành thư viện từ Hoa Kỳ về nước trước anh Thế vài tháng, đang trông coi công việc tại Phân Khoa Khoa Học Xã Hội và Thư Viện. Nơi đây đã trở thành một địa điểm tốt cho những anh chị em quan tâm đến ngành thư viện cùng nhau lập những kế hoạch lâu dài hầu phát triển ngành Thư viện Việt Nam.
Với những hoạt động thiết thực của Hội Thư Viện Việt Nam có trụ sở đặt tại ĐHVH, cũng như chính Hội đã có những lớp huấn luyện chuyên môn được tổ chức tại đây, Tiến sĩ Đoàn Viết Hoạt, Phụ Tá Viện Trường Đặc Trách Học Vụ, đã đệ trình lên Hội Đồng Viện ĐHVH và được chấp thuận mở Ban Thư Viện Học. Anh Thế đảm nhận chức vụ Trưởng Ban, cùng với một số các đồng nghiệp trẻ tuổi cũng tốt nghiệp ngành Thư Viện Học phụ trách việc giảng dạy những môn học của ngành này tại bậc Cử Nhân, Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn, dưới quyền điều khiển của Khoa Trưởng là Giáo sư Nguyễn Đăng Thục và Phó Khoa Trưởng là Tiến sĩ Lê Văn Hòa. Ban Thư Viện Học đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa đã chính thức được giảng dạy theo cấp bậc Cử Nhân bắt đầu từ niên khóa 1974-1975.
Nhưng rồi đến cuối tháng 4-1975, mọi chuyện sụp đổ hết. Bao nhiêu kiến thức, tâm huyết, thành quả đã đạt được, trong phút chốc biến thành hư vô, để tiếp thu một ngành thư viện cổ lỗ do người chiến thắng mang đến, có thể nói là đi giật lùi so với đà tiến triển của ngành thư viện thế giới tại thời điểm đó.
Tuy nhiên, sự nghiệp của anh Lâm Vĩnh-Thế không chấm dứt tại đó, khi vào năm 1981 anh và gia đình được người anh ruột đang ở Canada bảo lãnh sang. Sau một thời gian hội nhập xã hội mới, sự may mắn lại mỉm cười với anh. Người Thầy hướng dẫn anh trong thập nhiên 1970 lúc anh theo học ngành thư viện tại Đại Học Syracuse đã lại tận tình giúp đỡ, khuyến khích và đóng học phí cho anh đi học lại những môn học mới mẻ với sự áp dụng máy điện toán vào mọi hoạt động giảng dạy cũng như thực hành của ngành thư viện. Được đi học lại để có những kiến thức mới mẻ của ngành thư viện, anh đã hội nhập nhanh chóng vào môi trường mới, và được thu dụng làm việc trong ngành này tại Canada. Với trí thông minh cùng kinh nghiệm sẵn có, anh Thế đã thu nhận kiến thức mới dễ dàng. Với khả năng chỉ huy và nhất là sự quyết tâm thực hành công việc rất chu đáo, anh Thế ngày càng thăng tiến, cuối cùng anh đã hội nhập nhanh chóng và trở lại làm việc trong môi trường mới mẻ của ngành Thông Tin Thư Viện và rất thành công cho đến ngày về hưu.
Trong thời gian làm việc và đã hội nhập vào dòng chính của ngành Thông Tin Thư Viện tại Bắc Mỹ, anh Thế đã không quên thực hiện hoài bão phát triển ngành Thư Viện cho Việt Nam mà anh đã ấp ủ từ đầu thập niên 1970. Khi cuộc sống và công việc đã ổn định tại Canada, anh Thế đã hăng hái gia nhập cùng nhóm chuyên gia thư viện thông tin tại Mỹ để thực hiện các công tác như Dự Án Giáo Dục Thư Viện (Vietnam Library Education Project = VLEP) và Hội Hỗ Trợ Thư Viện và Giáo Dục Việt Nam (Library and Education Assistance Foundation for Vietnam = LEAF-VN) để giúp ngành thư viện Việt Nam thay đổi và hội nhập với đà tiến triển của thế giới. Năm 1998 anh Thế đã trở về Việt Nam lần đầu tiên để thuyết trình trong một hội nghị quốc tế về công nghệ thông tin (Hội Nghị Quốc Tế NIT ’98 = 10th International Conference on New Information Technology, March 24-26,1998, in Hanoi, Vietnam). Với bài thuyết trình này, anh đã chính thức thúc đẩy, khuyến cáo Việt Nam nên thiết lập những tiêu chuẩn dành cho ngành Thư Viện Thông Tin. Anh đã cộng tác với những nhóm đồng nghiệp Việt Nam ở Mỹ để dịch những tài liệu căn bản của ngành Thư viện chẳng hạn như ALA Từ Điển Giải Nghĩa Thư Viện Học và Tin Học Anh-Việt (1996), Bộ Quy Tắc Biên Mục Anh Mỹ Rút Gọn, 1988 (2004), những sách thuộc loại Cẩm Nang (Handbook) chỉ dẫn cách áp dụng những tiêu chuẩn quốc tế trong thư viện, viết những bài báo chuyên ngành thư viện, bằng tiếng Anh cũng như tiếng Việt xuất bản tại Canada, Úc Châu, Mỹ, và Việt Nam, v.v…
Với khả năng lãnh đạo cao, anh Thế luôn luôn đề ra những công tác khả thi cho Nhóm này để rồi lại liên lạc, hợp tác với các đơn vị thư viện trong nước để “chuyển giao” kiến thức chuyên môn, giúp cho sự phát triển ngành thông tin thư viện theo kịp với đà tiến triển của thế giới. Anh cũng đã cố gắng và thành công trong việc tìm kiếm học bổng và khuyến khích các đồng nghiệp tại Việt Nam ra nước ngoài tu nghiệp ngắn hạn để tăng cường nghiệp vụ của họ cũng như tiếp nối việc “chuyển giao” kiến thức cho đồng nghiệp của thế hệ sau trong nước, đạt được đúng tôn chỉ của Hội LEAF-VN mà anh Thế là một thành viên tích cực.
“Hội Hỗ Trợ Thư Viện và Giáo Dục Việt Nam (LEAF- VN) được thành lập nhằm giúp đỡ nhân dân Việt Nam thực hiện một nền giáo dục tốt đẹp bằng cách trợ giúp việc phát triển các hệ thống và dịch vụ thư viện trong cả nước.” (http:// leaf-vn.org) Cuốn hồi ký về cuộc đời của anh Lâm Vĩnh-Thế không chỉ là chuyện kể về nỗi thăng trầm trong đời của một cá nhân, mà còn chứa rất nhiều kiến thức về chuyên môn, về thời đại mà tác giả đã trải qua. Nói về chuyện học vấn của mình từ nhỏ tới lớn anh không bao giờ quên mô tả hệ thống giáo dục mà trong đó mình đã được đào tạo, các cuộc thi, các bằng cấp mà mình đã đạt được. Cho đến khi đi du học tại Hoa Kỳ về ngành Thư Viện, anh vẫn có thể kể rất chi tiết ngành mình theo học, từ giáo sư, bạn học cho đến giáo trình. Người đọc có thể không nắm được các chuyên môn trong ngành học của anh, nhưng biết khá chi tiết từng chặng đường anh đã vượt qua, và nhất là biết được những giá trị kiến thức mà anh đã thủ đắc. Và như để chứng minh công việc một đời của anh là thu thập sách vở tài liệu của một xã hội để cất giữ vào một nơi gọi là Thư Viện, trong cuốn hồi ký này anh cũng đã cung cấp rất đầy đủ tài liệu, hình ảnh, cho các sự việc mà anh đang kể.
Vì thế, có thể nói, quyển hồi ký này của tác giả Lâm Vĩnh-Thế cũng là một thư viện nho nhỏ của đời anh vậy.
California ngày 27-11-2020
Phạm Thị Lệ-Hương Faculty Emerita Modesto Junior College
Yosemite Community College District Modesto, California, Hoa Kỳ
__________________________________________
Phát Triển Ngành Thư Viện Việt Nam
(Tháng 5/1973 – 30/4/1975)
Cuối tháng 5-1973 tôi về đến Sài Gòn và đối diện với một thực tế có hơi phũ phàng: Trường ÐHSPSG không chịu thi hành hợp đồng đã ký kết với USAID là thành lập Ban Thư Viện Học. Tôi nghĩ quyết định này của Trường ĐHSPSG là do sự kiện Cơ quan USAID đã rút ra khỏi Việt Nam sau khi Hiệp Định Paris đã được ký kết vào ngày 27-1-1973. Tuy nhiên, cũng chính trong thời gian của hai năm này, từ tháng 5-1973 cho đến cuối tháng 4-1975, tôi đã có cơ hội đóng góp rất nhiều vào việc phát triển ngành thư viện tại VNCH.
PHÁT TRIỂN HỘI THƯ VIỆN VIỆT NAM
Trong thời gian nửa năm sau của 1973, tôi đã tham gia giảng dạy trong một số khóa huấn luyện sơ cấp dành cho các quản thủ thư viện học đường. Như đã trình bày trong Chương Một, các khóa huấn luyện sơ cấp này trước đây do CQPTTV của USAID phụ trách. Trước khi rút khỏi Việt Nam, cơ quan này đã chuyển giao công tác huấn luyện đó lại cho Nha Trung Học của Bộ Văn Hóa Giáo Dục. Ông Giám Đốc Nha Trung Học, Phạm Tấn Kiệt, một người bạn của tôi trong thời gian học trung học ở Trường Petrus Ký cũng như lúc học đại học ở Trường ĐHSPSG, đã mời tôi tham gia vào việc giảng dạy cho hai khóa huấn luyện sơ cấp này, một khóa tại Trường Nữ Trung Học Gia Long ở Sài Gòn, và một khóa tại Trường Trung Học Tống Phước Hiệp ở Vĩnh Long. Trong thời gian tôi còn đang học ở Hoa Kỳ, ông Hafenrichter đã thuyết phục được Trường ĐHSPSG mở Khóa I Huấn Luyện Trung Cấp Giáo Sư Quản Thủ Thư Viện đầu tiên trong niên khóa 1972-1973. Học viên được tuyển chọn từ các giáo sư trung học đệ nhị cấp đã có ít nhứt 2 năm thâm niên công vụ, đã tốt nghiệp một khóa huấn luyện sơ cấp về thư viện của CQPTTV, và đang phụ trách thư viện tại một trường trung học. Sau khi tốt nghiệp các khóa huấn luyện sơ cấp này, gần như tất cả các anh chị em giáo chức, phần lớn là các giáo sư trung học đệ nhị cấp đã tốt nghiệp ĐHSPSG, đều trở thành hội viên của HTVVN.
Trong thời gian đó, tôi cũng tiếp tục tham gia các công tác của HTVVN, và đã đóng góp cho TVTS, Bộ Mới, số 19 Đặc Biệt (1973), 2 bài báo với nhan đề như sau:
Hình 2.1. Bìa Thư viện tập san
- Một đề nghị với các quản thủ thư viện học đường: tổng kê đơn giản hóa, tr. 35-42 (có thể truy cập toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây.
- Nguyên tắc thiết lập đề mục, 77-83 (có thể truy cập toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây.
Lúc đó, trong Ban Chấp Hành của HTVVN, Bà Nguyễn Thị Cút và Anh Nguyễn Ứng Long vẫn còn đang giữ các chức vụ Chủ Tịch và Phó Chủ Tịch và đây cũng là nhiệm kỳ thứ ba của hai người. Anh Long báo cho tôi biết là cả Anh và Bà Cút đều đã cảm thấy mỏi mệt sau ba nhiệm kỳ liên tiếp và đều đã quyết định sẽ không ra tranh cử vào đầu năm 1974 nữa. Anh Long khuyên tôi nên ra ứng cử chức vụ Chủ Tịch HTVVN cho nhiệm kỳ 1974. Tôi đã nghe lời khuyên này của Anh Long. Ngày 3-2-1974, HTVVN họp Đại Hội Thường Niên để bầu Ban Chấp Hành mới cho nhiệm kỳ 1974. Tôi đã ra ứng cử chức vụ Chủ Tịch và đã đắc cử. Sau đây là thành phần của Ban Chấp Hành HTVVN cho nhiệm kỳ 1974:[1]
Ðây là lần đầu tiên từ ngày thành lập, HTVVN đã bầu vào các chức vụ Chủ Tịch, Phó Chủ Tịch, và Thủ Quỹ của Ban Chấp Hành ba quản thủ thư viện chuyên nghiệp, tốt nghiệp bằng Cao học về Thư Viện Học (MLS) từ các trường đại học của Hoa Kỳ. Một điều nữa cũng cần được nhấn mạnh: đây là lần đầu tiên HTVVN đã bầu một Ban Chấp Hành gồm đa số là những người trẻ (dưới 45 tuổi), tất cả đều đã được huấn luyện chuyên môn thư viện, và tốt nghiệp với bằng MLS ở Hoa Kỳ, hay bằng Cao Đẳng về Thư Viện từ Hoa Kỳ và Úc, hoặc các khóa huấn luyện sơ cấp hoặc trung cấp ở trong nước với một Cố Vấn Ðoàn gồm những vị cao niên và hoạt động lâu năm trong nghề.
Ban Chấp Hành đã có buổi họp đầu tiên vào ngày 6-2-1974 tại trụ sở mới của Hội đặt trong khuôn viên của Viện Đại Học Vạn Hạnh (ĐHVH), tại số 222 đường Trương Minh Giảng, Quận 3, Sài Gòn. Một quyết định quan trọng đã được thông qua tại buổi họp này là HTTVN sẽ phát hành một Bản tin (BT) hàng tháng.
Hình 2.3. Trang bìa Bản Tin Số 1 (Tháng 3-1974) của Hội Thư Viện Việt Nam
Trong Lá Thư Chủ Tịch của BT đầu tiên của HTVVN, tôi đã phác họa một đường lối hoạt động tích cực để giúp phát triển Hội như sau:[2]
Hình 2.4. Lá Thư Chủ Tịch, Bản Tin (HTVVN) Số 1 (Tháng 3-1974)
Dựa trên đường lối đã phác họa như trên, Ban Chấp Hành đã thảo luận và đồng thuận một chương trình hoạt động cho nhiệm kỳ 1974 gồm các dự án như sau:
- Xuất bản TVTS như một quý san, ba tháng ra một số, một năm đủ 4 số; đồng thời cũng xuất bản tờ BT, mỗi tháng ra một số, giữa các số của TVTS
- Tổ chức 2 Khóa Huấn Luyện Căn Bản Thư Viện Học dành cho hội viên
- Tổ chức một Đại Hội Hè để thảo luận một số vấn đề chuyên môn và nội bộ của Hội
- Chấn chỉnh và kiện toàn tình trạng hội viên của Hội
- Ấn hành một số tài liệu chuyên môn
Được sự ủy quyền của Ban Chấp Hành, và với tư cách Chủ Tịch của HTVVN, tôi đã đích thân đi gặp vị Đại Diện của Cơ Quan Văn Hóa Á Châu (Asia Foundation) tại Việt Nam, lúc đó là ông Julio Andrews, trình bày chương trình hoạt động này và xin tài trợ. Độ một tuần lễ sau, HTVVN nhận được văn thư của Asia Foundation báo cho biết họ chấp nhận tài trợ một phần các dự án trong chương trình hoạt động này của Hội. Nhờ sự tài trợ này, Ban Chấp Hành đã thực hiện được một phần quan trọng của chương trình hoạt động đã đề ra cho nhiệm kỳ 1974.[3]
Thư viện tập san và Bản tin hàng tháng
Bốn số TVTS từ số 20 (Ðệ 1 TCN 1974) đến số 23 (Ðệ 4 TCN 1974), với bài vở thật phong phú, đã được xuất bản và gởi đến toàn thể hội viên khắp cả nước, từ Huế vào đến An Xuyên (Cà Mau). Sau đây là một số bài vở tiêu biểu:
- Lâm Vĩnh-Thế, Thư viện cổ tại Alexandria, số 20, 3-12 (có thể truy cập toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây.
Nhật Thịnh và Nguyễn Thị Khuê Giung, Ðại cương những tên hiệu Việt Nam xưa và nay, số 20, 23-34. (có thể truy cập toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: - Nguyễn Văn Hường, Sử dụng học sinh phụ tá tại thư viện, số 21, 14-28. (có thể truy cập toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây.
- Lê Ngọc Oánh, Tiến trình phát triển thư viện học đường Việt Nam hiện tại, số 21, 38-51. (có thể truy cập toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây.
- Nguyễn Xuân, Văn khố Việt Nam thời Pháp thuộc, và những di sản văn hóa triều Nguyễn, số 22, 17-42. (có thể truy cập toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây.
- Lê Tấn Tài, Cách tổ chức hồ sơ xếp đứng trong thư viện học đường, số 22, 43-52. (có thể truy cập toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây.
- Lê Bá Kông (Phạm Thị Lệ-Hương dịch), Kỹ nghệ xuất bản sách tại Việt Nam Cộng Hòa, số 23, 17-32. (có thể truy cập toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây.
- Lâm Vĩnh-Thế, Chương trình I.P. là gì? số 23, tr. 45-50. (có thể truy cập toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây.
Trong thời gian giữa các số TVTS, 7 số BT hàng tháng cũng đã được ấn hành và phân phối đến hội viên để thông báo đầy đủ cho hội viên về các dự án công tác (thí dụ như Ðại Hội Hè 1974) cũng như những hoạt động cụ thể của Ban Chấp Hành trong suốt nhiệm kỳ về cả hai phương diện đối nội cũng như đối ngoại, thí dụ như tranh cử vào Hội Ðồng Văn Hóa Giáo Dục (HĐVHGD).
Huấn Luyện Căn Bản Thư Viện Học
Theo đúng như chương trình hoạt động đã đề ra, hai khóa huấn luyện căn bản thư viện học miễn phí dành cho hội viên đã được tổ chức trong năm 1974.
- Khóa 1: với 31 học viên, khai giảng ngày 7-5-1974, và bế giảng ngày 28-6-1974
- Khóa 2: với 30 học viên, khai giảng ngày 23-9-1974, và bế giảng ngày 13-11-1974
Hai khóa huấn luyện đều được tổ chức tại trụ sở của Hội, trong khuôn viên của ĐHVH với phòng học chính là Thư viện của ÐHVH. Mỗi khóa huấn luyện gồm 120 giờ học, với chương trình gồm các bộ môn như sau: Lịch Sử Thư Viện; Tổ Chức và Ðiều Hành Thư Viện; Tổng Kê và Phân Loại; và, Công Tác Tham Khảo. Ban giảng huấn là các thành viên của Ban Chấp Hành và Cố Vấn Ðoàn. Trong lúc học tập, học viên cũng được đưa đi thăm viếng các thư viện lớn tại Sài Gòn. Các lễ khai giảng và bế giảng đều được tổ chức trọng thể tại Giảng Ðường 19 là giảng đường lớn nhứt của ÐHVH và đặt dưới sự đồng chủ tọa của vị Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên và Thượng Tọa Thích Mãn Giác, Phụ Tá Viện Trưởng Ðặc Trách Điều Hành của ĐHVH. Tại lễ bế giảng các học viên đều được cấp chứng chỉ tốt nghiệp của Hội. Sau lễ bế giảng là một tiệc trà thân mật tại Câu Lạc Bộ của ÐHVH. Trong các dịp nầy, các thiệp mời đã được gởi đến cho tất cả các cơ quan và hội đoàn văn hóa công và tư tại thủ đô Sài Gòn. Nhờ vậy vị trí của HTVVN trong sinh hoạt văn hóa của VNCH đã được nâng cao rất nhiều. Sau đây là một vài hình ảnh về hai khóa huấn luyện căn bản thư viện học này:
Hình 2.5. Giáo sư Bùi Xuân Bào, Thứ Trưởng Bộ Giáo Dục Đặc Trách Văn Hóa, đọc diễn văn tại Lễ Khai Giảng Khóa Huấn Luyện
Hình 2.6. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, Viện Trưởng Viện Đại Học Sài Gòn, trao Chứng Chỉ Tốt Nghiệp cho Học viên Khóa Huấn Luyện
Hình 2.7. Tiệc trà sau Lễ Bế Giảng Khóa Huấn Luyện tại Câu Lạc Bộ của Viện Đại Học Vạn Hạnh
Ðại Hội Hè 1974
Ðây là lần đầu tiên từ ngày thành lập vào năm 1958, HTVVN đã triệu tập một đại hội bất thường mệnh danh là Ðại Hội Hè 1974, vào các ngày 9, 10 và 11-8-1974, để thảo luận một số vấn đề về nội bộ và chuyên môn. Ðại Hội nầy đã được Ban Chấp Hành HTVVN nhiệm kỳ 1974 chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Bốn Ủy Ban Ðặc Biệt đã được thành lập và giao cho nhiệm vụ chuẩn bị tài liệu cho Ðại Hội. Đó là các Ủy Ban sau đây:
Ủy Ban Phân Loại:
Trưởng Ban: Ông Lâm Vĩnh-Thế Thư Ký: Ông Nguyễn Ngọc Hoàng
Ủy Viên: Cô Nguyễn Thị Phương Nguyệt, Ông Ðỗ Văn Anh, và Ông Nguyễn Văn Vinh
Ủy Ban Tổng Kê:
Trưởng Ban: Cô Nguyễn Thi Nga
Ủy Viên: Cô Phạm Thị Lệ-Hương, Bà Bùi Tuyết Nhung, và Ông Hoàng Ngọc Hữu
Ủy Ban Tu Chính Ðiều Lệ và Nội Quy:
Đồng Trưởng Ban: Các ông Nguyễn Cửu Sà và Lâm Vĩnh-Thế
Thư Ký Ðoàn: Các ông Nguyễn Nhựt Quang, Trần Thanh Sao, và Lê Văn Thu
Thuyết Trình Ðoàn:
Các ông Lê Ngọc Oánh, Nguyễn Hùng Cường, và Hoàng Ngọc Hữu
Ủy Ban Quy Chế Thư Viện Học Ðường:
Trưởng Ban: Ông Lê Ngọc Oánh
Thư Ký Ðoàn:
Các ông Nguyễn Nhựt Quang và Nguyễn Văn Thước
Thuyết Trình Ðoàn: Các cô Ðặng Thị Thảo và Huỳnh Thị Oanh
Nhiệm vụ của các Ủy Ban đã được Ban Chấp Hành ấn định cụ thể như sau:
- Ủy Ban Phân Loại: soạn thảo bảng số phân loại thập phân Dewey cho Lịch Sử, Ðịa Lý, và Văn Học Việt Nam
- Ủy Ban Tổng Kê: giải quyết dứt khoát vấn đề làm Tiểu dẫn cho tên tác giả Việt Nam
- Ủy Ban Tu Chính Ðiều Lệ và Nội Quy: tu chính Ðiều Lệ và Nội Quy của HTVVN cho thích hợp với hoàn cảnh và đà phát triển của ngành thư viện tại Việt Nam
- Ủy Ban Quy Chế Thư Viện Học Ðường: dự thảo một Quy Chế dành cho quản thủ thư viện học đường
Các Ủy Ban đã họp hàng tuần trong suốt hai tháng 4 và 5/1974. Ðề nghị của các Ủy Ban sau đó đã được Ban Chấp Hành thảo luận trong các phiên họp ngày 29-6-1974 và 4-7- 1974. Toàn bộ đề nghị của bốn Ủy Ban được in ra và gởi đến cho toàn thể hội viên nghiên cứu một tháng trước khi về tham dự Ðại Hội. Ban Chấp Hành cũng liên hệ với Nha Tiểu Học và Nha Trung Học của Bộ Văn Hóa Giáo Dục để các quản thủ thư viện học đường (đều là giáo chức) được cấp Lộ Trình Thư, và riêng một số hội viên ở các tỉnh xa được cấp cả vé phi cơ, để về dự Ðại Hội. Trong thời gian 3 ngày dự Ðại Hội, các hội viên đều được Hội cấp phụ cấp vãng phản. Ðại Hội Hè 1974 đã thành công hết sức rực rỡ với sự tham dự của gần 300 hội viên (trước đây số hội viên về họp các Ðại Hội Thường Niên để bầu lại Ban Chấp Hành không bao giờ vượt quá con số 100) và đạt được tất cả 4 mục tiêu đề ra, quan trọng nhứt là Quy Chế Thư Viện Học Ðường.[4]
Chấn Chỉnh Tình Trạng Hội Viên
Từ đầu nhiệm kỳ 1974, Ban Chấp Hành được biết tổng số hội viên là gần 400 trên toàn quốc. Trong số nầy, hội viên thực sự có sinh hoạt với Hội không lên quá 100. Số hội viên đã không đóng niên liễm (200 đồng một năm) lên tới trên 250 người, trong số nầy có người đã thiếu niên liễm 2-3 năm, thậm chí có người thiếu niên liễm đến 6-7 năm. Ðiều nầy có nghĩa là HTVVN đã thất thu một số niên liễm rất quan trọng. Trong khi họp để thảo luận về vấn đề nầy, Ban Chấp Hành đi đến kết luận là tình trạng hội viên không đóng niên liễm có hai nguyên nhân chánh: 1) Về phía hội viên, vì trong quá khứ Hội đã không có đem lại quyền lợi gì thiết thực cho hội viên khiến cho một số đông hội viên nghĩ rằng chả có lý do gì họ phải đóng niên liễm cả; 2) Về phía Hội thì cũng có thiếu sót là không có theo dõi và truy thu niên liễm. Từ kết luận nầy, Cô Phạm Thị Lệ-Hương, Chánh Thủ Quỹ, đã đề ra một kế hoạch để truy thu và tận thu niên liễm. Các Bản Tin hàng tháng là phương tiện giúp thực hiện kế hoạch nầy. Một mặt trình bày cho hội viên thấy rõ những quyền lợi thiết thực mà họ đã và đang được hưởng từ khi Tân Ban Chấp Hành bắt đầu làm việc: 1) Hội viên đã được nhận miễn phí các số TVTS với bài vở phong phú giúp họ tích cực trong công tác cũng như những BT hàng tháng với đầy đủ tin tức cập nhật; 2) Hội viên đã được huấn luyện miễn phí về căn bản thư viện học (tổng số hội viên tốt nghiệp qua 2 khóa huấn luyện là 61 người); 3) Hội viên về tham dự Ðại Hội Hè đã được hưởng Lộ Trình Thư và phụ cấp vãng phản. Mặt khác thì tha thiết kêu gọi tất cả hội viên phải đóng niên liễm để Hội có phương tiện tiếp tục phục vụ hội viên. Tất cả những hội viên còn thiếu niên liễm đều nhận được văn thư nhắc nhở và ghi rõ số niên liễm còn thiếu. Ngoài ra văn thư nầy cũng ghi rõ thời gian ân hạn, sau thời điểm đó nếu hội viên vẫn không chịu đóng niên liễm thì sẽ bị xóa tên trong danh sách hội viên. Tuyệt đại đa số hội viên đã hưởng ứng nồng nhiệt lời kêu gọi nầy và kết quả là HTVVN đã truy thu được trên 100.000 đồng tiền niên liễm đã bị thiếu. Ðến đầu năm 1975, tại Ðại Hội Thường Niên ngày 12-1-1975, tổng số hội viên của HTVVN được ghi nhận là 436.[5]
Những Hoạt Động Khác của HTVVN
Với tư cách thành viên của Ban Chấp Hành của HTVVN, tôi và ông Nguyễn Văn Hường, Tổng Thư Ký của Hội, đã được mời thuyết trình tại một số hội thảo hoặc huấn luyện ở các trường học tại thủ đô Sài Gòn như sau:[6]&[7]
- Ngày 4-3-1974, tại Trường Quốc Gia Sư Phạm, từ 10 giờ đến 12 giờ, tôi thuyết trình với đề tài Triết lý và mục tiêu của thư viện tiểu học
- Ngày 25-3-1974, cũng tại Trường Quốc Gia Sư Phạm, từ 10 giờ đến 12 giờ, tôi thuyết trình với đề tài Tổ chức và điều hành một thư viện tiểu học; sau phần nói chuyện của tôi, ông Nguyễn Văn Hường, đã trình bày chi tiết về Kỹ thuật trị thư.
- Ngày 4-5-1974, do lời mời của Ông Phạm Tấn Kiệt, Giám Đốc Nha Trung Học, tại Khóa Hội Thảo của các Giáo Sư Quản Thủ Thư Viện trong Vùng Sài Gòn – Chợ Lớn và Gia Định, tổ chức tại Trường Trung Học Tổng Hợp Nguyễn An Ninh, tôi thuyết trình với đề tài Vấn đề tham khảo tại thư viện; sau phần nói chuyện của tôi, ông Nguyễn Văn Hường, đã trình bày đề tài Việc sử dụng học sinh phụ tá tại thư viện.
Riêng bản thân tôi còn được mời tham gia giảng dạy một giáo trình về Tổng Kê và Phân Loại cho Khóa II Huấn Luyện Trung Cấp Giáo Sư Quản Thủ Thư Viện tại Trường ĐHSPSG vào đầu tháng 6-1974. Cũng như Khóa I (1972-1973), Khóa II gồm 26 Giáo sư Trung Học Đệ Nhị Cấp đã có ít nhứt 2 năm thâm niên công vụ và đã tốt nghiệp một khóa huấn luyện sơ cấp. Tôi rất vui khi nhận ra trong số 26 học viên có 2 người đã từng là bạn đồng khóa Sử Địa 3 tại Trường ĐHSPSG (1960-1963) của tôi hơn 10 năm về trước: Chị Đặng Thị Thảo và Anh Cao Đình Vưu.
Ngoài các công tác thuyết trình vừa kể trên nhằm mục tiêu là phổ biến các kiến thức căn bản về thư viện học cho các giáo chức quản thủ thư viện ở các trường tiểu học và trung học, HTVVN còn cho ấn hành nhiều tài liệu chuyên môn. Bên cạnh các giáo trình in ronéo đã sử dụng trong các khóa huấn luyện căn bản thư viện học, HTVVN đã ấn hành quyển Bảng Phân Loại Thập Phân Dewey dựa trên ấn bản trong phần Phụ Ðính của cuốn Phương Pháp Tổng Kê và Phân Loại Sách của Ông Richard K. Gardner và Bà Nguyễn Thị Cút với nhiều sửa đổi và gia tăng các con số cho các mục Sử Ðịa và Văn Học Việt Nam đã được thông qua tại Ủy Ban Phân Loại của Ðại Hội Hè 1974. Ngoài ra, HTVVN cũng đã thành lập một Ủy Ban Phiên Dịch để chuyển dịch sang Việt ngữ cuốn Bảng Phân Loại Thập Phân Dewey, ấn bản 10 Rút gọn (Dewey Decimal Classification, 10th Abridged Edition, của nhà xuất bản Forest Press). Dự án phiên dịch nầy đã nhận được sự tài trợ của Asia Foundation.
PHÁT TRIỂN NGÀNH THƯ VIỆN VIỆT NAM
Thành quả tốt đẹp của những hoạt động tích cực của HTVVN trong nhiệm kỳ 1974 không những đã tạo ra một thế đứng có tầm vóc cho HTVVN trong sinh hoạt văn hóa của VNCH mà còn mang lại một số hệ quả tốt đẹp cho việc phát triển ngành thư viện nói chung cho cả nước mà chính Ban Chấp Hành HTVVN cũng hoàn toàn không tiên liệu được.
Trước hết phải nói đến sự ủng hộ rất tích cực của các vị lãnh đạo Bộ Văn Hóa Giáo Dục và các đơn vị dưới quyền họ như Nha Tiểu Học, Nha Trung Học, Trường Quốc Gia Sư Phạm trong các công tác chuyên môn của HTVVN như đã trình bày bên trên. Từ việc ủng hộ tinh thần, Bộ Văn Hóa Giáo Dục đã nhanh chóng tiến tới sự ủng hộ vật chất cho HTVVN. Do đề nghị của vị Thứ Trưởng Ðặc Trách Văn Hóa, người đã chứng kiến tận mắt những hoạt động tích cực của HTVVN trong những lần chính ông đến chủ tọa các lễ khai giảng và bế giảng của các khóa huấn luyện do Hội tổ chức, Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên đã ban hành Nghị Ðịnh số 2496/VHGDTN/TC/TT/NÐ ngày 9-11-1974 trợ cấp một ngân khoản là 200.000 đồng cho những hoạt động bất vụ lợi của HTVVN.
Kế tiếp phải kể đến việc HTVVN được các hội đoàn văn hóa tư bầu vào Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục (HÐVHGD). HĐVHGD là một trong ba hội đồng (hai hội đồng kia là Hội Ðồng Kinh Tế – Xã Hội và Hội Ðồng Các Sắc Tộc) do Hiến Pháp VNCH năm 1967 thành lập và do chính Phó Tổng Thống VNCH làm Chủ Tịch. Theo các điều khoản số 93 và 94 của Hiến Pháp 1967, HÐVHGD, với nhiệm vụ tư vấn chính phủ trong các vấn đề văn hóa và giáo dục, gồm có 60 hội viên, 40 được các hội đoàn văn hóa giáo dục công và tư cùng các hội phụ huynh học sinh bầu ra và 20 do Tổng Thống VNCH chỉ định. Trong số 40 hội viên được bầu sẽ có 8 hội viên do các hội đoàn văn hóa tư bầu ra. Ðầu năm 1974 HÐVHGD chuẩn bị bầu cử cho nhiệm kỳ 2 (1974-1977). HTVVN là một trong 15 hội đoàn văn hóa tư hội đủ điều kiện để được tham gia vào cuộc bầu cử nầy. Sau khi ông Cố vấn Nguyễn Hùng Cường từ chối sự đề cử, Ban Chấp Hành HTVVN đồng ý đề cử tôi, với tư cách đương kim Chủ Tịch HTVVN, làm đại diện của Hội để tranh cử vào HÐVHGD. Nhờ vị thế và tầm vóc của Hội trong sinh hoạt văn hóa tại thủ đô trong thời gian đó, tôi đã đắc cử với số phiếu cao nhứt (13/15 phiếu).[8] Tại phiên họp khoáng đại đầu tiên của HÐVHGD Nhiệm Kỳ 2, tôi cũng đã được toàn thể hội viên bầu vào chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Văn Hóa Giáo Dục Ðại Chúng, một trong 8 ủy ban của Hội Ðồng. Tôi đã có chủ định, với tư cách Chủ Tịch Ủy Ban Văn Hóa Giáo Dục Ðại Chúng, sẽ cố gắng soạn thảo một Dự Luật về Thư Viện Công Cộng cho VNCH, trình bày và cho thảo luận tại Ủy Ban trước khi đưa ra cho HÐVHGD phê chuẩn và chuyển sang hành pháp để yêu cầu hành pháp thực thi. Chủ định nầy đã không thành vì biến cố 30-4-1975.
Sau cùng nhưng quan trọng nhứt trong việc phát triển ngành thư viện cho Việt Nam là việc Đại Học Vạn Hạnh quyết định thành lập Ban Thư Viện Học (BTVH), đào tạo Cử Nhân Thư Viện Học đầu tiên tại VNCH. Nhận thấy rõ khả năng chuyên môn cũng như tinh thần hoạt động bất vụ lợi của Ban Chấp Hành HTVVN, rất phù hợp với tôn chỉ của Viện Ðại Học Vạn Hạnh, Giáo sư Ðoàn Viết Hoạt, Phụ Tá Viện Trưởng Ðặc Trách Học Vụ, đã yêu cầu Ban Chấp Hành HTVVN nghiên cứu và thuyết trình cho Hội Ðồng Viện một dự án thiết lập BTVH cho ÐHVH. Ngày 30-4-1974, tôi đã đại diện Ban Chấp Hành HTVVN thuyết trình trước Hội Ðồng Viện về dự án nầy và dự án đã được Hội Ðồng Viện đồng thanh chấp thuận. BTVH được chính thức thành lập như một Ban của Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn, ÐHVH, và tôi đã được cử nhiệm làm Trưởng Ban đầu tiên. Trong mùa Hè 1974, mặc dù rất bận rộn với Đại Hội Hè, Ban Chấp Hành HTVVN cũng đã hết sức cố gắng hoàn tất chương trình học cho BTVH đầu tiên của VNCH.[9] Xem thêm chi tiết tai địa chỉ Internet sau đây: http://leaf-vn. org/BanThuVien-DHVanHanh.pdf] Học kỳ đầu tiên của BTVH đã khai giảng vào đầu năm học 1974-1975 với 70 sinh viên. BTVH này chỉ mới giảng dạy được hai học kỳ với thành phần ban giảng huấn và các khóa trình như sau:
Học Kỳ 1:
- Ông Lâm Vĩnh-Thế: Tổng Kê và Phân Loại I
- Cô Phạm Thị Lệ-Hương: Tổ Chức và Điều Hành Thư Viện
- Ông Lê Ngọc Oánh: Tuyển Chọn Tài Liệu
- Ông Tống Văn Diệu: Lịch sử
Thư Viện Học Kỳ 2:
- Ông Lâm Vĩnh-Thế: Tổng Kê và Phân Loại II
- Cô Phạm Thị Lệ-Hương: Công Tác Khảo Cứu và Trình Bày Luận Văn
- Ông Lê Ngọc Oánh: Tham Khảo Tổng Quát
- Ông Nguyễn Ứng Long: Anh Ngữ I
Học Kỳ 2 khởi sự vào khoảng tháng 3-1975 đã không bao giờ được kết thúc vì biến cố bi thảm 30-4-1975 chấm dứt sự hiện hữu của VNCH. BTVH của ĐHVH đã bị chết non, chưa đào tạo được một vị Cử Nhân Thư Viện Học nào cho VNCH. Giáo trình duy nhứt của BTVH đã được Ban Tu Thư của ĐHVH in xong và còn lưu giữ được đến ngày hôm nay là cuốn TỔ CHỨC VÀ ĐIỀU HÀNH THƯ VIỆN của Giáo sư Phạm Thị Lệ-Hương:
Hình số 2.8. Giáo trình Tố Chức và Điều Hành Thư Viện
NHỮNG CHUYỆN SAU CÙNG CỦA NĂM 1975
Ngày 1-1-1975, Giáo sư Trần Văn Tấn, Khoa Trưởng ĐHSPSG, ký quyết định chính thức cử nhiệm tôi làm Thư Viện Trưởng của Trường.
Tại phiên họp khoáng đại thường niên ngày 12-1-1975, phần lớn các thành viên trong Ban Chấp Hành Nhiệm Kỳ 1974 đã được hội viên tín nhiệm và bầu lại vào Ban Chấp Hành Nhiệm Kỳ 1975 với thành phần như sau:[10]
- Chủ Tịch: Ông Lâm Vĩnh-Thế
- Phó Chủ Tịch: Ông Lê Ngọc Oánh
- Tổng Thư Ký: Ông Nguyễn Văn Hường
- Phó Tổng Thư Ký: Ông Tống Văn Diệu
- Chánh Thủ Quỹ: Cô Phạm Thị Lệ-Hương
- Phó Thủ Quỹ: Bà Nguyễn Thị Khuê-Giung
- Ủy Viên Kế Hoạch: Ông Nguyễn Ngọc Hoàng
- Ủy Viên Tổ Chức: Ðại Ðức Thích Lệ Mãnh
- Ủy Viên Tài Chánh: Ông Nguyễn Văn Vinh
- Ủy Viên Xã Hội: Cô Ðặng Thị Thảo
- Ùy Viên Thông Tin Liên Lạc: Cô Tôn Nữ Minh Ngọc
- Ủy Viên Thư Viện Học Ðường: Bà Tăng Thị Hoa
- Ủy Viên Thư Viện Chuyên Môn: Ông Hoàng Ngọc Hữu
- Ủy Viên Thư Viện Ðại Học: Cô Võ Thị Vân
- Ủy Viên Thư Viện Công Cộng: Cô Nguyễn Thị Nga
Ban Chấp Hành Nhiệm Kỳ 1975 nầy đã không làm tròn được nhiệm vụ vì biến cố 30-4-1975. Các khóa huấn luyện, mà khoá đầu tiên dự định sẽ tổ chức vào tháng 4-1975, cũng như Ðại Hội 3 Hè 1975, việc ấn hành Bảng Liệt Kê Tiêu Ðề Ðề Mục, các số TVTS, BT hàng tháng, v.v., tất cả đều không thực hiện được. Ban Chấp Hành Nhiệm Kỳ 1975 chỉ ấn hành được một số TVTS duy nhứt, đó là số 24, Bộ mới, Ðệ 1 TCN 1975. (có thể truy cập toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây.
Công tác thứ hai được hoàn thành (tồn lại từ nhiệm kỳ 1974) là việc phiên dịch Bảng Phân Loại Thập Phân Dewey, Ấn bản 10 Tóm Lược. Khi tôi đích thân mang bản dịch (mỗi bản dịch gồm 3 tập giấy đánh máy trên 500 trang, tổng cộng là 9 tập) đến nộp cho Asia Foundation là cơ quan tài trợ cho dự án phiên dịch quan trọng nầy, theo đúng hợp đồng đã ký kết với họ, vào khoảng cuối tháng 4-1975, thì vị Ðại Diện của Asia Foundation, ông Julio Andrews, đã rời khỏi Sài Gòn theo lệnh của Toà Ðại Sứ Hoa Kỳ vì tình hình chiến tranh Việt Nam đã sắp đi vào chung cuộc.
Hoạt động sau cùng của HTVVN, mỉa mai thay, không dính líu gì đến việc phát triển thư viện cho Miền Nam, là đi cứu trợ các hội viên từ Miền Trung di tản vào đang tạm trú tại các trại tỵ nạn ở Sài Gòn. Ban Chấp Hành quyết định cho phép Chủ tịch và Thủ Quỹ rút từ quỹ của HTVVN ra một số tiền là 200.000 đồng để cứu trợ cho hội viên. Tôi và Cô Thủ Quỹ Phạm Thị Lệ-Hương đã đi đến tận các trại tỵ nạn nầy để trao cho các hội viên, mỗi người một phong bì đựng 5.000 đồng, gọi là tỏ chút tình tương thân tương trợ của Hội đối với hội viên.
Công cuộc phát triển của ngành thư viện tại VNCH đang diễn ra thật tốt đẹp và đầy hứa hẹn, song song với sự phát triển và hoàn thiện của HTVVN như một hội đoàn chuyên môn, đã chấm dứt một cách đột ngột vào ngày 30-4-1975. Cũng như tất cả những phát triển về mọi mặt khác của VNCH, kinh tế – xã hội – văn hóa – giáo dục, những bước phát triển của ngành thư viện VNCH mà HTVVN của nhiệm kỳ 1974 đã đặt được những nền tảng thật vững chắc, đã hoàn toàn bị xóa bỏ chỉ vì ý thức hệ chính trị mù quáng. Ngành thư viện của Việt Nam nói chung cũng như đời sống và sự nghiệp của cá nhân tôi nói riêng bước vào một giai đoạn suy thoái và khốn cùng.
[ Trích trọn Chương 2, TRÒN NHIỆM VỤ | Hồi ký của một Quản Thủ Thư Viện Canada gốc Việt, Tác giả Lâm Vĩnh-Thế ]
________________________________________________
[1] Thư viện tập san, số 20 (Đệ I TCN, 1974), tr. 65, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.nsl.hcmus.edu.vn/ greenstone/collect/tapsantv/index/assoc/HASH0198.dir/11.pdf; danh sách Ban Chấp Hành HTVVN được ghi lại ở cuối tài liệu này.
[2] Bản tin / Hội Thư Viện Việt Nam, số 1 (Tháng Ba 1974), tr. 2.
[3] Lâm Vĩnh-Thế. Phát Triển Thư Viện Tại Miền Nam Trước 1975, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://viethocjournal. com/2018/11/phat-trien-thu-vien-tai-mien-nam-truoc-1975/
[4] Nguyễn Văn Hường và Hoàng Ngọc Hữu, “Thành quả Đại Hội Hè 74: biên bản đúc kết”, Thư viện tập san, số 22 (Đệ 3 TCN 1974), tr. 60-68, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.nsl.hcmus. edu.vn/greenstone/collect/tapsantv/index/assoc/HASHd0a5.dir/8.pdf
[5] “Biên bản Ðại Hội Ðồng Thường Niên Hội Thư Viện Việt Nam ngày 12.01.75 bầu cử Ban Chấp Hành Nhiệm Kỳ 1975,” Bản Tin / Hội Thư Viện Việt Nam, số 1/1975, ngày 1-2-1975, tr. 1-7.
[6] “Thuyết-trình về thư-viện trường tiểu-học tại giảng đường Trường Sư- Phạm Saigon,” Bản tin / Hội Thư Viện Việt Nam, số 2 (Tháng Tư 1974), tr. 3.
[7] “Hội Thư Viện thuyết trình tại Khóa Hội Thảo GS/QTTV ở Trung Học Nguyễn An Ninh,” Bản Tin / Hội Thư Viện Việt Nam, số 3 (Tháng Sáu 1974), tr. 4-5.
[8] Bản tin / Hội Thư Viện Việt Nam, số 4 (Tháng Bảy 1974), tr. 4.
[9] Lâm Vĩnh-Thế, tài liệu đã dẫn bên trên, Phụ Đính, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn, Giới thiệu Chương Trình Thư Viện Học Niên Khóa 1974-1975, tr. 17-19. Có thể xem chi tiết về Chương Trình Thư Viện Học ở cuối bài viết trực tuyến, có thể đọc toàn văn tai địa chỉ Internet sau đây: http://leaf-vn.org/BanThuVien-DHVanHanh.pdf
[10] “Biên bản Ðại Hội Ðồng Thường Niên Hội Thư Viện Việt Nam ngày 12.01.75 bầu cử Ban Chấp Hành Nhiệm Kỳ 1975,” Bản Tin / Hội Thư Viện Việt Nam, số 1 (Tháng Hai 1975), tr. 1-7.
LỜI BẠT
Sự nghiệp QTTV của tôi đã trải dài trên ba thập niên, nói cho thật đúng là 33 năm (1973-2006). Chưa đến một phần ba của thời gian đó là phục vụ tại Việt Nam (1973-1981). Phần thời gian còn lại (1982-2006) là làm việc tại Canada với những đóng góp quan trọng cho cộng đồng thư viện Bắc Mỹ. Tuy nhiên, có thể nói là những gì mà tôi đã thực hiện được trong khoảng thời gian rất ngắn, chưa đầy 2 năm, từ Tháng 2-1974 cho đến ngày 30-4-1975, trong những cố gắng cùng với những thân hữu và đồng nghiệp trong Hội Thư Viện Việt Nam nhằm phát triển hệ thống thư viện cho Việt Nam Cộng Hòa, vẫn luôn luôn sống động trong tâm tư của tôi. Khi tôi rời Việt Nam đi định cư tại Canada vào tháng 9-1981, tôi rất vui mừng vì đã tìm lại được tự do, nhưng đồng thời tôi cũng rất buồn với cảm giác là đã phải bỏ lại ở Việt Nam một công việc chưa hoàn tất.
Sau khi đã ổn định trong cuộc sống và nghề nghiệp tại quê hương mới, tôi đã có phương tiện để thực hiện một vài nghiên cứu về lịch sử vốn là môn học mà tôi đã rất thích thú và cũng đã được đào ở đại học trước khi chuyển sang ngành thư viện. Tôi bắt đầu tìm hiểu về lịch sử của gia đình họ Lâm của tôi, về các bậc tiền bối trong dòng họ, và về người Minh Hương, với kết quả là bài viết của tôi về Đình Minh Hương Gia Thạnh trong Chợ Lớn, tức Khu Phố Tàu của Sài Gòn trước 1975 (mà tôi đã có đề cập đến trong Ghi Chú số 1 trong Chương Một của cuốn Hồi Ký này).
Tôi được biết là những người Minh Hương đầu tiên đã đến Việt Nam từ hơn ba trăm năm trước, thật đúng Ià năm 1679. Dưới sự lãnh đạo của Tướng Trần Thượng Xuyên (1626-1720), Tổng Binh ba châu Cao-Lôi-Liêm thuộc tỉnh Quảng Đông, tại Hoa Nam, họ đã đến xin thần phục Chúa Nguyễn Phúc Tần (1610-1687) ở Đàng Trong, với lý do họ là trung thần của Nhà Minh (1368-1644) và không chịu thần phục Nhà Thanh (1644- 1911). Chúa Nguyễn Phúc Tần đã chấp nhận họ, và không những ban chức tước cho Tướng Trần Thượng Xuyên mà còn cấp phát đầy đủ lương thực và mọi thứ cần thiết cho họ vào sinh sống trong vùng Đồng Nai – Cửu Long mới tiếp thu và chưa được khai phá. Người Minh Hương không bao giờ quên cái ơn rất lớn đó của Chúa Nguyễn. Về sau, tất cả họ đều trở thành người Việt Nam và luôn luôn đứng về phe các Chúa Nguyễn trong suốt thời gian chiến tranh chống lại quân Trịnh và quân Tây Sơn cho đến khi Vua Gia Long (1802-1820) toàn thắng và thiết lập triều đại Nhà Nguyễn (1802-1945). Nhiều người Minh Hương, thí dụ như các ông Trịnh Hoài Đức (1765-1825) và Lê Quang Định (1759-1813), đã trở thành những đại thần (làm đến chức Thượng Thư đứng đầu cả một Bộ) dưới triều Vua Gia Long. Mặc dù đã trở thành những công dân phục vụ tốt cho quê hương mới, những người Minh Hương vẫn không bao giờ quên họ là những trung thần của nhà Minh. Họ đã xây dựng ngôi đền thờ của họ vào năm 1789 (về sau được xây cất lại mới hoàn toàn mà Ông Cố Nội của tôi, cụ Lâm Quang Kiển, là người đã đứng ra chủ trì) để họ có nơi phụng thờ Vua Nhà Minh cũng như các vị tiền bối người Minh Hương, trong đó có cả Tướng Trần Thượng Xuyên và Quan Thương Thư Trịnh Hoài Đức.
Tôi bỗng nhận ra rằng, sau hơn 300 năm kể từ khi những người Minh Hương đầu tiên đến Việt Nam, tôi đang chứng kiến một sự lập lại của lịch sử. Giờ đây, cùng với gia đình, tôi cũng đã rời bỏ quê hương, tỵ nạn tại một nước khác. Giờ đây, tôi cũng đã trở thành công dân của Canada và cũng đã có những đóng góp quan trọng cho Canada, đất nước dung thân và đã trở thành quê hương thứ hai của tôi. Và, trên hết, tôi vẫn không quên nguồn gốc của tôi là một người dân của Việt Nam Cộng Hòa nay không còn nữa, nhưng đó là nơi tôi đã để lại một công việc chưa hoàn tất.
May mắn thay, lần này lịch sử tái diễn với một thay đổi tốt và có hậu. Khác với tổ tiên của tôi đã không bao giờ có cơ hội trở về cố hương, tôi đã có được nhiều cơ hội trở về Việt Nam và hoàn tất công việc đã bị bỏ dở. Cùng với những người bạn ngày xưa, những thành viên của Ban Chấp Hành Hội Thư Viện Việt Nam, nhiệm kỳ 1974-1975, sau cùng, tôi đã hoàn thành công tác giúp cho hệ thống thư viện của Việt Nam trở thành một thành viên được hoan nghênh trong cộng đồng thư viện thế giới.