
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng…
Ca dao Việt Nam bao giờ cũng hay, cũng gợi cảm và đượm tình. Hay vì nó đơn giản, không cầu kỳ. Gợi cảm vì nó được diễn đạt trong sự tức cảnh, và nhất là sự hòa hài trọn vẹn giữa lòng người và cảnh vật chung quanh. Đượm tình vì bất cứ lúc nào ngâm lên câu ca dao cũng khiến lòng mình rung động.
Đầm và sen được hòa hợp trong tương phản. Hòa hợp vì sen không thể thiếu đầm. Ngược lại, đầm mà thiếu sen, thì đầm càng tang thương xơ xác hơn nhiều. Tương phản vì từ ngữ “đầm” đã cho chúng ta hình ảnh của một cái gì hôi tanh, ô uế và dẫy đầy sự dơ dáy. Trong khi đó thì ảnh hình chiếc hoa sen vừa đẹp, vừa duyên dáng thanh khiết lại vừa tỏa một hương thơm ngạt ngào. Cái đẹp của hoa sen không lộng lẫy, mà kín đáo. Cái ngạt ngào của hương sen không khêu gợi, nhưng thâm trầm. Cái thanh khiết của hoa sen không từ trời cao rơi xuống, mà từ giữa lòng bùn nhơ sinh ra. Đã mấy ai khi ngang qua một đầm sen mà không dừng chân ghé mắt để ngắm nhìn những bông sen dịu hiền nhưng đầy cương quyết và nghị lực. Cái cương quyết của hoa sen là nhất định chui ra khỏi lớp bùn đen đui dơ dáy. Cái nghị lực của nó là phải vươn lên khỏi mặt nước, dù nước ấy bao sâu, trước khi khoe sắc tỏa hương. Cánh sen không hề điểm một vết bùn. Hương sen không những không thoảng hơi bùn, mà còn làm át đi mùi bùn hôi hám. Quả đúng là: gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn!
Tôi vốn không thích hoa, bất cứ hoa gì. Dĩ nhiên, tôi cũng không thích ngửi hương của hoa. Tuy thế, tôi cũng đã có lần ngồi hàng giờ bên hồ sen để ngắm nhìn những vẻ đẹp yêu kiều của hoa sen. Và, cũng đã có ít nhất một lần tôi bơi trong hồ sen, suýt chết đuối, để hái cho bằng được một nụ sen vừa chồi lên khỏi mặt nước, năm ấy tôi 11 tuổi. Hành động ấy xảy ra ban chiều của một ngày hè năm ấy, khi tôi được nghe giảng về ý nghĩa chiếc hoa sen từ một anh huynh trưởng Gia đình Phật tử vào ban mai. Anh huynh trưởng giảng thật nhiều và thật hay, nhưng cái đầu ham chơi, nghịch ngợm của một cậu bé 11, tôi không còn nhớ nhiều hơn một câu hỏi đơn giản trước khi chấm dứt cuộc nói chuyện: “Các em có thích hoa sen không?” Như một cái máy, thật rập ràng, thật trong trẻo dễ thương và cũng thật “ồn ào,” gần 20 em Oanh Vũ, trong đó có tôi, trả lời: “Thích!”
Mười lăm năm sau, học kinh Pháp Hoa, kinh Diệu Pháp Liên Hoa – tôi phát giác ra rằng cái “thích” mà tôi nhịp nhàng trả lời vang lên của 15 năm trước không giống như bây giờ nữa. Cái đầm sen và hình ảnh chiếc hoa sen mà anh huynh trưởng giảng giải bây giờ đã thực sự tiêu hóa và biến dạng trong tôi. Cái đầm sen bây giờ là: Giữa lòng thế gian đau khổ triền miên này; hình ảnh chiếc hoa sen vĩ đại và ngời sáng trong tôi bây giờ lại là: Thái Tử Tất Đạt Đa, một con người mà vượt cả loài người.
Từ ngữ “Thái Tử” cho chúng ta những hình ảnh giàu sang, quý phái, oai phong và kể cả sự kiêu căng ngạo nghễ nữa là khác. Thái Tử Tất Đạt Đa giàu đến nỗi bốn mùa ở bốn biệt điện khác nhau. Mỗi biệt điện được trang hoàng cực kỳ mỹ lệ. Quý phái, vì Ngài sinh ra từ một giai cấp quý tộc của xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Oai phong đến nỗi mỗi lần Ngài ra thăm nhân gian là tất cả phố xá đều được trang hoàng rực rỡ, với cả tùy tùng hộ giá và vạn dân nghinh tiếp tung hô. Khí tượng đế vương hiện rõ ràng trên khuôn mặt Thái Tử. Sơn hà xã tắc và uy quyền hầu như đang nằm gọn trong tay Ngài. Thế mà, sự kiêu ngạo lại không có đất đứng trong vườn tâm của Thái Tử. “Lão bái phục Thái Tử không chỉ vì trí thông minh, mà còn vì sự lễ độ, tánh khiêm cung và lòng từ tốn của Thái Tử đối với lão nữa.” Một trong những giáo sư lỗi lạc dạy Thái tử lúc thiếu thời đã nói như vậy.
Lợi danh và những lạc thú thế gian luôn luôn là những miếng mồi “thơm” mà ai nấy đều thèm khát. Vì lợi danh khiến cho con sẵn sàng giết cha để chiếm đoạt ngôi vua, như trường hợp Thái Tử A Xà Thế. Trong thế gian có rất lắm chuyện chỉ vì những lạc thú tầm thường mà đã khiến cho tình cốt nhục tương tàn. Nếu đầm được mô tả là tanh hôi, ô uế, thì sự tương tàn tương sát trong tình cốt nhục và giữa tình người với nhau phải được xem là ô uế, tanh hôi, gấp mấy vạn lần. Sự tanh hôi của đầm nhiều lắm cũng chỉ bay xuôi theo chiều gió. Trong khi đó, sự hôi tanh của trần thế hiện qua sự tranh danh đoạt lợi, mạnh được yếu thua… dầu ngược gió cũng làm xú uế cả muôn phương. Nếu hoa sen có thể tỏa hương làm át đi mùi hôi thối trong đầm lầy, thì sự từ bỏ cung vàng điện ngọc, vượt thoát ra ngoài vòng thế gian triền phược của Thái Tử Tất Đạt Đa không những ngát hương cho khắp nhân gian, khắp cõi đời này, mà còn xông ngát lên cho cả mấy tầng trời.
Chỉ một sự ra đời của Ngài không thôi cũng đủ để chúng ta cúi đầu bái phục suốt cuộc đời mà không biết mỏi, nói chi đến một giáo lý vừa cao siêu diệu vợi, vừa thực tiễn mà Ngài đã trực diện vào giữa đêm MỒNG TÁM THÁNG CHẠP của hơn 2500 năm về trước. Hơn hai ngàn rưỡi năm trôi qua, chưa có một người thể nhập thực tại, chân lý trọn vẹn tương tợ. Ngày ấy nay lại trở về. Chúng ta đang vui mừng trong tủi hổ. Vui mừng vì từ ngày ấy đến nay, chúng ta được diễm phúc tắm gội trong ánh hào quang của một bậc Đại Giác. Tủi hổ vì từ ngày ấy đến nay, trải qua một chuỗi thời gian dài dậm dọc, chúng ta vẫn chưa đạt được một công trình khai phóng nội tâm nào khả dĩ tương xứng trong muôn một đối với Ngài!
Ngài quả là một đóa sen sáng chói trong vô vàn đóa sen. Nếu phải ca tụng và xưng tán Ngài, chúng ta không ca tụng, xưng tán như một vị thần linh vạn năm, mà là một con người bằng xương bằng thịt với đầy đủ khí phách và trọn vẹn tình người. Hay cung kính hơn là một bậc thầy, một vị đạo sư. “Ta không phải là một vị thần linh, ta chỉ là người dẫn đường,” Ngài đã tuyên bố như vậy. Chúng ta không nên để đức Phật quá tầm với của chúng ta. Chúng ta hãy để Ngài ngay trên “đầu giường” của chúng ta. Hãy cung kính và xưng tụng Ngài là một người như bao người khác mà Ngài đã làm được những điều, đã giác ngộ những điều mà bao nhiêu người khác chưa thể làm được, chưa thể giác ngộ được. Hãy mang hình ảnh và hàng trang của Ngài đi thẳng vào cuộc đời.
Mang HÀNH TRANG ĐỨC PHẬT đi vào cuộc đời là một hành động thực tiễn, cần thiết và cấp bách giữa lòng thế gian đau khổ này.
Hương Đạo 14, 01/1981