
Mặc dù từ trước đến nay, nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến Phật giáo, nhưng riêng với quan điểm chống xâm hại trẻ em dường như là rất hiếm, và khó tìm thấy. Thậm chí, một số học giả nghiên cứu cho rằng không có quan điểm của Phật giáo về lạm dụng trẻ em, khi dựa vào một số văn bản Văn học Phật giáo như Vessantara Jataka, Tilamutti Jātaka, và Kēsi Sutta… Tuy nhiên, nếu nghiên cứu sâu hơn, có thể tìm thấy nhiều ví dụ tập trung vào việc bảo vệ trẻ em vừa nêu trên.
Một thái độ khác nữa, là việc khắc kỷ trẻ em dưới mười tám được cho là hành vi ngược đãi trẻ em. Nhưng mục đích chính của Phật giáo là đạt được hạnh phúc của Niết bàn. Trẻ em được thực hành từ thời thơ ấu để đạt được Niết-bàn. Vì vậy, việc khắc kỷ trẻ em trong ý nghĩa này không thể được ví là hành vi ngược đãi trẻ em.
Dù sao, cũng khó để tìm ra câu trả lời chính xác cho việc ngăn chặn hành vi lạm dụng trẻ em bởi vì không có bản Kinh nào tập trung một cách cụ thể vào lãnh vực này. Nhưng cơ bản, bàng bạt trong nhiều bài Kinh thì vẫn có một mối quan tâm rõ rệt. Đức Phật đề cập trong Piya Sutta rằng trẻ em là vốn liếng của con người nhưng bi kịch là trẻ em bị lạm dụng bởi chính cha mẹ của mình. Trong bài kinh Vasala đề cập đến việc không nên kết hôn với trẻ em nhưng tục tảo hôn vẫn tồn tại ở một số nơi trên thế giới. Kinh Mahāvagga pāli và Siṇgālōvāda đề cập đến lòng trắc ẩn của cha mẹ đối với con cái nhưng con cái lại bị chính gia đình lạm dụng. Vattakkhandhaka của Luật tạng khuyên rằng người thầy nên đối xử với học trò của mình như thế nào – “Putta cittan upaṭṭha pessati” (Mahavagga pali 01, 95 p) – có nghĩa là người thầy nên quan tâm đến học trò của mình như con ruột. Và, mặt khác, học sinh nên coi giáo viên của mình như cha của chính mình – “Pitu cittan upaṭṭha pessati” (Mahavagga pali 01, 95 p) – nhưng dù vậy, bi kịch vẫn là; trẻ em bị giáo viên bạo hành trong trường bằng nhiều cách khác nhau. Những dữ kiện này cho thấy rằng mọi lý thuyết đều có trong triết lý Phật giáo nhưng vấn đề là những lý thuyết đó không được thực hành một cách đúng đắn. Cụ thể, phương pháp triết học có thể được áp dụng để ngăn chặn lạm dụng trẻ em như Virmanaya và Samādānaya. Mỗi người có trách nhiệm đạo đức để ngăn chặn bất kỳ hình thức lạm dụng hoặc quấy rối tình dục trẻ em (viramanaya). Có trách nhiệm xã hội để bảo vệ trẻ em như một phần của lòng từ bi xã hội (samādānaya).
*
Trẻ em là kim chỉ nam và trở thành những nhà lãnh đạo trong tương lai, họ vốn là những người vốn cần phải có đủ sức khỏe tinh thần lẫn thể chất. Nhân cách và sự tự tin được phát triển dựa trên cái gọi là hai yếu tố này. Vì vậy, trẻ em lẽ ra phải lớn lên trong một môi trường hoàn hảo, nhưng bi kịch là trẻ em đang ngày ngày bị bạo hành trên thế giới.
“Trẻ em có quyền được bảo vệ trước mọi hình thức bạo lực. Chúng phải được giữ an toàn để tránh bị tổn hại. Những người chăm sóc chúng phải được chăm sóc chu đáo” (Điều 19, Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em, 1990)
Mọi hình thức đối xử tàn ác với trẻ em đều gây tổn hại. Trong tất cả các trường hợp lạm dụng trẻ em, chỉ có một số nhỏ liên quan đến hoàn toàn là từ người lạ. Trẻ em có nhiều khả năng bị lạm dụng bởi những người mà chúng quen biết và tin tưởng, chẳng hạn như cha mẹ, người chăm sóc, các thành viên khác trong gia đình hoặc bạn bè của gia đình. Trẻ em thuộc mọi tầng lớp xã hội bị xâm hại; tuy nhiên một số trẻ em có nhiều nguy cơ hơn. Chúng bao gồm trẻ em đang sống xa nhà với các thành viên khác trong gia đình hoặc người lạ, trẻ em khuyết tật cũng như trẻ mồ côi đang sống trên đường phố.
Bài nghiên cứu này tuy còn rất sơ sài, tuy nhiên tác giả đã cố gắng đưa ra phương pháp tiếp cận của Phật giáo để kiểm soát và xóa bỏ nạn lạm dụng trẻ em, cũng như nêu lên quan điểm của Phật giáo về sự phát triển bền vững. Nghiên cứu dựa trên phương pháp định lượng và định tính; với sự tham khảo từ các nguồn tư liệu khả tín; cũng như rút ra từ những kinh nghiệm cá nhân mà người viết trải nghiệm trong thực tế với tư cách là một Nhân viên Xã hội.
*
Trước hết, cần làm rõ thế nào là trẻ em, thế nào là trẻ em bị xâm hại và khái niệm Phát triển bền vững. Theo đó, từ Child đã được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau:
“Mọi người dưới 18 tuổi đều được coi là trẻ em” (Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em).
Công ước định nghĩa ‘trẻ em’ là người dưới 18 tuổi, trừ khi luật pháp của một quốc gia cụ thể quy định độ tuổi hợp pháp cho độ tuổi trưởng thành nhỏ hơn. Ủy ban Quyền trẻ em, cơ quan giám sát Công ước, đã khuyến khích các Quốc gia xem xét lại độ tuổi trưởng thành nếu nó được quy định dưới 18 tuổi và tăng mức độ bảo vệ cho tất cả trẻ em dưới 18 tuổi. “Chưa phải là người lớn; một đứa trẻ chưa sinh, không phù hợp với trẻ nhỏ được coi là một đứa trẻ” (Từ điển Oxford, 203 tr) trong hai định nghĩa này đưa ra một cái nhìn tổng quan về việc làm rõ và định nghĩa đứa trẻ là ai.
Tiếp theo, “lạm dụng trẻ em là gì”: “Xâm hại trẻ em là khi cha mẹ hoặc người chăm sóc trẻ em, dù thông qua hành động hay không hành động, gây ra thương tích, tử vong, tổn thương tinh thần hoặc nguy cơ gây tổn hại nghiêm trọng cho trẻ em”. Có nhiều hình thức ngược đãi trẻ em, bao gồm bỏ mặc, lạm dụng thể chất, lạm dụng tình dục, bóc lột và lạm dụng tình cảm. (https://www.childhelp.org/child-abuse/)
Tiếp nữa, cũng cần làm rõ những tác động của lạm dụng trẻ em đối với sự phát triển bền vững. Từ phát triển bền vững được đưa ra vào tháng 9 năm 2015, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã chính thức thông qua Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển bền vững “phổ quát, tích hợp và chuyển đổi”, một bộ gồm 17 Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs). Các mục tiêu sẽ được thực hiện và đạt được ở mọi quốc gia từ năm 2016 đến năm 2030 (sustainabledevelopment.un.org). Khi nghiên cứu 17 mục tiêu Phát triển bền vững, rõ ràng là không có mục tiêu nào liên kết trực tiếp đến trẻ em, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng nếu không có phúc lợi hoàn hảo cho trẻ em thì không ai có thể bàn về phát triển bền vững sẽ đạt được vào năm 2030.
Cứ mười giây lại có một báo cáo về lạm dụng trẻ em, hơn năm trẻ em chết mỗi ngày do bị lạm dụng trẻ em. Khoảng 80% trẻ em chết vì bị ngược đãi dưới 4 tuổi. Người ta ước tính rằng khoảng 50-60% trẻ em tử vong do bị ngược đãi không được ghi trong giấy chứng tử (http://www.childhelp.org/pages/statistics2). Nhiều hiện tượng cho thấy tình trạng lạm dụng trẻ em xảy ra trên thế giới với tỷ lệ cao và nạn lạm dụng trẻ em ảnh hưởng đến nạn nhân suốt cuộc đời trong tương lai với những đặc điểm xấu rất lớn.
Trẻ em có thể bị lạm dụng về thể chất, tình dục, tinh thần và bị bỏ rơi. Dù bị lạm dụng theo cách nào thì nó cũng ảnh hưởng nhiều hơn đến các em trong cuộc đời. Lạm dụng thể chất có thể ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe và sự phát triển của trẻ. Nó có thể gây ra chấn thương cơ thể, tổn thương não hoặc tàn tật. Và có thể dẫn đến việc trẻ phát triển các vấn đề về cảm xúc, hành vi hoặc giáo dục. Đối với một số trẻ, những khó khăn này có thể tiếp tục đến khi trưởng thành. Ví dụ, những người bị lạm dụng thể chất khi còn nhỏ có thể gặp vấn đề với các mối quan hệ cá nhân, và có nhiều khả năng lạm dụng con cái của họ.
Lạm dụng tình cảm dẫn đến các vấn đề hành vi nghiêm trọng. Tất cả trẻ em đều cần được cha mẹ hoặc người chăm sóc chấp nhận, yêu thương, khuyến khích, nhất quán và quan tâm tích cực. Những đứa trẻ bị từ chối những điều này thường lớn lên và nghĩ rằng chúng bị thiếu thốn tình cảm ở một khía cạnh nào đó và chúng dễ tự ti mặc cảm. Một đứa trẻ thường xuyên bị quát mắng, đe dọa, sỉ nhục hoặc xúc phạm sẽ cảm thấy mình vô dụng và phát triển hình ảnh và lòng tự trọng kém.
Lạm dụng tình dục dẫn đến vấn đề tâm lý bất lợi cho nạn nhân:
– trong nhiều trường hợp ở tuổi trưởng thành. Chúng có thể bao gồm trầm cảm, mất ngủ, tự ti, rối loạn chức năng tình dục khi trưởng thành, các hành vi như làm ướt giường hoặc mút ngón tay cái. Tùy thuộc vào mức độ, nạn nhân có thể phát triển sợ hãi và lo lắng dẫn đến tự kỷ.
– hành vi phá hoại bao gồm lạm dụng ma túy và rượu, các vấn đề với những mối quan hệ, sợ hãi (hoặc hận thù) người khác giới cũng như lo lắng về các vấn đề tình dục.
Bỏ bê có thể có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển lâu dài về thể chất, tinh thần và cảm xúc của trẻ. Đối với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, những tác động này có thể đe dọa đến niềm tin. Trẻ em không được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc y tế có thể bị tàn tật hoặc suy giảm thể chất nghiêm trọng. Trẻ em được cung cấp dinh dưỡng không phù hợp có thể bị béo phì khi trưởng thành hoặc bị rối loạn ăn uống. Trẻ em không được tiếp cận giáo dục có thể có kết quả và chất lượng cuộc sống kém khi trưởng thành. (Bảo vệ trẻ em châu Phi ở Vương quốc Anh, 7 trang).
Các dấu hiệu liên quan hành vi ngược đãi:
- Tâm lý và hành vi khác nhau không giống như trước đây
- Tâm lý khác nhau đối với trẻ em
- Thiếu mối quan hệ với nhà hoặc nơi ở sau khi bị lạm dụng
- Mối quan hệ nhiều hơn với ngôi nhà hoặc nơi xảy ra lạm dụng
- Nỗ lực nhiều hơn để điều tra về tội phạm hoặc lạm dụng
- Bỏ trốn khỏi nơi ở sau khi bị lạm dụng
- Nhân ái hơn đối với trẻ em bị lạm dụng và trao phần thưởng, quà tặng
- Sợ đối mặt với đứa trẻ bị lạm dụng
- Chạy trốn khỏi đứa trẻ bị lạm dụng
Phục hồi tinh thần và thể chất để không trở thành kẻ bạo hành khi lớn lên.
- Quan tâm hơn nữa và ứng phó để trẻ em bị bạo hành không bị bạo hành trở lại về tinh thần hoặc thể chất tại cơ quan công quyền, trung tâm quản chế, nhà trẻ mồ côi hoặc khu vực phúc lợi xã hội.
- Nâng cao nhận thức cho cấp chính quyền và cấp cơ sở để thông báo về các vụ xâm hại trẻ em.
- Cử nhân viên đặc nhiệm có năng lực điều tra xâm hại trẻ em ở cơ sở.
- Bổ nhiệm người chăm sóc trẻ không phạm tội trong lĩnh vực chăm sóc trẻ em, trung tâm quản chế, nhà nuôi dưỡng trẻ mồ côi và các ngành có liên quan.
- Cung cấp dịch vụ tư vấn nhận thức để bảo vệ khỏi bị xâm hại. (như tư vấn gia đình)
*
Như đã nói ở phần đầu, các nghiên cứu cho thấy nhiều quan điểm Phật giáo liên quan đến những chủ đề khác nhau nhưng rất hiếm và khó tìm thấy quan điểm của Phật giáo về phòng chống lạm dụng trẻ em. Thậm chí một số học giả nghiên cứu về lĩnh vực học thuật của Phật giáo thì nói rằng không có quan điểm nào trong Phật giáo về vấn đề này.
Nhưng, cần nhấn mạnh rằng văn học được thay đổi theo thời gian, do đó không nên nói rằng Phật giáo không có quan điểm về lạm dụng trẻ em. Khi tìm hiểu sâu về đạo Phật, có thể thấy rất nhiều ví dụ cho thấy không ít những lời dạy chú trọng đến vấn đề bảo vệ trẻ em trong kinh điển.
Song, rõ ràng là triết lý Phật giáo bao gồm các phương pháp bảo vệ trẻ em nhưng những phương pháp đó vẫn chưa được ứng dụng đúng mức cho đến thời điểm hiện tại. Và đây là lúc thích hợp để chúng ta nhận thức và suy nghĩ lại về thái độ của Phật giáo trong việc ngăn chặn vấn nạn lạm dụng trẻ em cho sự phát triển bền vững.
Với những trải nghiệm thực tế hiện nay, chúng ta thấy rõ tình trạng xâm hại trẻ em xảy ra trong xã hội như thế nào. Trẻ em bơ vơ và đáng được thương yêu. Chúng cần sự quan tâm và bảo vệ của cha mẹ, người lớn tuổi hoặc người chăm sóc. Xâm hại trẻ em được thực hiện ở những nơi bất ổn về kinh tế, hay có trình độ học vấn thấp. Khi cha mẹ mất, phần lớn trẻ em có nguy cơ trở thành nạn nhân. Nhiều trường hợp gây ra bởi những người trong gia đình mà không phải là những người xa lạ. Người ta nhận thấy rằng mọi đứa trẻ đều phải chịu rủi ro về nơi sống của chúng. Lạm dụng trẻ em đang xảy ra bằng vũ lực cũng như gian lận.
Bấy giờ, cần nhiều phương pháp tiếp cận của Phật giáo, các chương trình can thiệp được thực hiện cho trẻ em và phụ huynh. Các khía cạnh thực tiễn của Phật giáo được giảng dạy theo nhiều cách khác nhau bằng cách sử dụng các dữ kiện có trong những văn bản kinh điển. Những trẻ em không có cha hoặc mẹ hoặc cả hai cần được quan tâm nhiều hơn. Những chương trình khuyến khích và nâng cao nhận thức cũng nên được thực hiện với sự tham gia của các cơ quan chính phủ hay được ủy quyền. Nếu có trẻ em đang đối mặt với hành vi lạm dụng dù chỉ là nhỏ của người khác cũng cần quan tâm báo cáo.
Để kết luận, nhằm đạt được 17 mục tiêu phát triển bền vững của LHQ, sức khỏe tinh thần và thể chất của trẻ em cần được quan tâm hơn. Thực tế trên minh chứng rằng đã có nhiều tác động ảnh hưởng đến trẻ em khi đối mặt với bất kỳ hình thức xâm hại trẻ em nào. Nếu không có sự an toàn về tinh thần và thể chất của trẻ em, việc đạt được 17 mục tiêu phát triển bền vững là một điều quá ảo tưởng, mặc dù vẫn biết rằng trẻ em là người sẵn sàng lãnh đạo xã hội trong tương lai. Để đạt được những mục tiêu đó, mọi thành viên của xã hội đều có nghĩa vụ và hành động bảo vệ trẻ em. Bài nghiên cứu này phần nào nêu lên thái độ và giáo lý của Phật giáo cần được áp dụng và sử dụng để ngăn ngừa lạm dụng trẻ em. Điều quan trọng là những lời dạy của Phật giáo về văn bản kinh điển phải được thực hành và giảng dạy bởi các nhà lãnh đạo tôn giáo, nếu không những lời dạy đó là vô nghĩa và bị giới hạn trong kinh văn. Đạo Phật là một triết lý có thể áp dụng cho bất kỳ thời điểm nào trong cuộc sống và có thể tìm ra câu trả lời cho mọi vấn đề của con người; và nó là một chân lý.
_________________________________
Tham khảo
- Công ước về Quyền trẻ em, 1990 https://www.childhelp.org https://www.sustainabledevelopment.un.org
- Mahāvagga Pali 01 (1957). Bộ truyện Buddha Jayanti Thripitaka, Colombo
- Loạt bài về Bảo vệ trẻ em châu Phi ở Vương quốc Anh, (2009), Luân Đôn
- Kinh Sanyutta Nikāya 01. Sagāta vagga (1957). Bộ truyện Buddha Jayanti Thripitaka, Colombo
- Sally. Từ điển nâng cao dành cho học sinh của Oxford . (2000). Xuất bản lần thứ 6, Nhà xuất bản Đại học Oxford.
_______________________________
Source: PDF
Child Abuse and Protection
BUDDHIST ATTITUDE ON PREVENTION CHILD ABUSE
FOR SUSTAINABLE DEVELOPMENT
by Rev. Sangabopura Akhila