
Jiddu Krishnamurti | Internet
Carlo Suarès dịch Pháp: ‘SUR LA CRISE CONTEMPORAINE’
Thế giới hiện nay đang lâm vào cảnh khủng hoảng thật trầm trọng chưa từng có. Qua nhiều thế kỷ, nhân loại đã từng trải qua biết bao cơn khủng hoảng, nào khủng hoảng xã hội, khoảng hoảng quốc gia, khủng hoảng chính trị. Mỗi lần có cuộc khủng hoảng xảy ra như thế là nền kinh tế không tránh khỏi sự sụp đổ, xã hội bị xáo trộn, và còn gây nên nhiều biến cố khác. Mọi điều ai cũng biết rõ.
Nhưng cuộc khủng hoảng ngày nay, không như các cuộc khủng hoảng trên. Nó khác hẳn, trước tiên vì nó không phải là cuộc khủng hoảng tiền tệ hay vật phẩm mà là cuộc khủng hoảng về ý tưởng. Nó nằm trong phạm vi đào tạo những tư tưởng. Thật vậy, chúng ta đang chiến đấu cho những học thuyết chủ nghĩa. Khắp nơi trên thế giới đều phơi bày cho chúng ta thấy sự giết người như một phương tiện để đạt đến những mục tiêu luân lý; đó là điều mà ngàn xưa chưa từng có.
Quan niệm xưa cho tội ác là một điều xấu, giết người là vi phạm quyền sống của kẻ khác, nhưng ngày nay người ta cho sự sát hại một cá nhân hay một số người là hành động hợp lý, vì kẻ mưu sát cũng như nhóm người chủ trương giết chóc ấy, quan niệm rằng chính đó là phương tiện để đạt tới cứu cánh lợi ích cho nhân loại.
Chúng ta hy sinh hiện tại cho tương lai, và xem các phương tiện dù tàn ác đến đâu cũng không mấy cần thiết, miễn chúng ta tin rằng cứu cánh của chúng ta là toàn thiện. Tóm lại, chúng ta tin chắc rằng cần phải dùng những phương tiện tàn bạo nhất mới có thể thu đặng những thành quả tốt đẹp, và chúng ta dùng danh nghĩa và lý tưởng để biện minh cho những phương tiện đó là chính đáng.
Trước kia các cuộc khủng hoảng phát minh bởi sự khai thác những tài nguyên và bóc lột khả năng con người. Hiện tại khủng hoảng vì sự lạm dụng các học thuyết chủ nghĩa, nên càng khốc hại, nguy hiểm và phá hoại hơn. Ngày nay, chúng ta ai cũng đều thấy rõ lợi khí của tuyên truyền. Sự dùng chủ nghĩa học thuyết để lôi cuốn, cải đổi tư tưởng quần chúng này là một trong những tai họa lớn nhất cho nhân loại. Chúng ta thấy điều đó đã xảy ra khắp nơi. Con người không quan trọng đảng phái chủ nghĩa mới đáng kể. Cá nhân không có một chút giá trị gì. Họ có thể tàn sát hàng triệu người để mong đạt đến mục đích của họ, rồi họ lại đưa ra chiêu bài chủ nghĩa để bênh vực cho những hành động dã man đó là chính đáng.
Con người đề ra những lý thuyết chủ trương hay ho để biện minh cho mọi hành động bạo tàn phi luân của chính họ, thật là điều chưa từng thấy. Ðiều ác luôn luôn là điều ác, không bao giờ nó đem lại kết quả thiện. Chiến tranh không phải là con đường dẫn đến hòa bình. Nó có thể dâng hiến cho chúng ta những lợi ích tầm thường, chẳng hạn những chiếc phi cơ tối tân hơn, nhưng chiến tranh sẽ không bao giờ mang lại hòa bình cho chúng ta. Tuy nhiên, chiến tranh vẫn được tinh thần con người ngày nay cổ vũ xem như phương tiện thích đáng để kiến tạo hòa bình. Và khi nào chúng ta có ý niệm dùng chiến tranh để giải quyết các vấn đề nhân sinh, tưởng lúc ấy chúng ta khó tránh khỏi gây nên những cuộc khủng hoảng trầm trọng.
Cũng còn nhiều nguyên nhân khác đã tạo nên các cuộc khủng hoảng chưa từng có trên. Một trong những nguyên nhân đó là bởi chúng ta quá chú trọng đến những thú vui cảm giác, của cải riêng tư, danh vị đẳng cấp và các phù hiệu chúng ta mang bên ngoài: chúng ta tự xưng nào là tính đồ Hồi giáo, Ấn độ giáo, nào là đồ đệ của Các Mác, hoặc nhiều danh từ khác nữa. Chúng ta đã để ý nhiều đến những điều đó. Nói khác đi là con người chúng ta ngày nay hoàn toàn bị chi phối bởi lòng ham muốn những dục lạc, những tư sản tạo nên do sức cần lao trí óc hoặc chân tay của chúng ta.
Chúng ta tham đắm vào những của cải vật chất đó đến nỗi chúng ta có thể bắn giết, đâm chém tiêu diệt lẫn nhau vì chúng. Bởi thế, hiện tại chúng ta như đang nằm ở trên bờ vực thẳm. Tất cả những hành động xấu của chúng ta đã đưa chúng ta đến đó. Mọi chủ trương (hoạt động) chính trị và kinh tế nhầm lẫn của chúng ta chắc không tránh khỏi xô chúng ta rơi vào hố sâu hỗn loạn và khổ đau.
Vậy thì, với cuộc khủng hoảng chưa từng có này, chúng ta buộc phải có những hành động thật hy hữu mới mong cứu vãn được mọi tình thế. Chúng ta phải can đảm làm một cuộc cải cách nội tâm mạnh mẽ như hành động của người ráng sức nhảy vượt qua một miệng hố. Và phải tự sửa đổi tức thì. Vì cuộc khủng hoảng chưa từng có, nên chúng ta cần phải có những hành động thật đại dũng. Trong vấn đề cải thiện cá nhân, chúng ta nên thực hành tức khắc, không thể hẹn chờ thời gian được. Nó phải thực hiện ngay bây giờ, không nên để đến ngày mai, vì ngày mai là vô thường thay đổi.
Nếu chúng ta có ý nghĩ đợi đến ngày mai mới cải thiện, tức chúng ta không tránh khỏi rước lấy sự hỗn loạn và mãi mãi rơi vào tình trạng suy sụp. Nhưng có thể sửa đổi bây giờ không? Chúng ta có thể tự mình hoán cải hoàn toàn tức khắc ngay giờ phút hiện tại không? Tôi chắc rằng có thể được lắm.
Cuộc khủng hoảng thật trầm trọng, và chúng ta chỉ có thể đạt đến kết quả trên bằng cách phải cải thiện những ý niệm của chúng ta. Sự cải thiện này, chúng ta phải tự mình thực hành lấy, chứ không thể nhờ thiên hạ, sách vở hay các tổ chức nào ngoài chúng ta làm giúp được. Mỗi chúng ta phải tự thực hiện sự sửa đổi ấy. Chỉ có như vậy, chúng ta mới mong xây dựng được một tổ chức mới, một xã hội mới, trong đó con người sống không còn khiếp sợ trước viễn tượng của những cuộc khủng hoảng suy sụp đang diễn tiến khắp nơi như hiện nay. Và sự cải thiện này chỉ có thể thực hiện khi mỗi cá nhân chúng ta bắt đầu biết tự giác lấy mình trong mỗi tình cảm, lời nói, việc làm và ý nghĩ.
________________________________
Trích tác phẩm Pháp ngữ “La Première Et Dernière Liberté” (Sự Giải Thoát Ðầu Tiên và Cuối Cùng)
Jiddu Krishnamurti hay J. Krishnamurti, (12 tháng 5 năm 1895–17 tháng 2 năm 1986) là một tác gia và nhà diễn thuyết nổi tiếng về các vấn đề triết học và tinh thần. Các chủ đề bao gồm (nhưng không giới hạn): mục đích của thiền định, mối quan hệ giữa con người, và phương cách để tạo nên sự thay đổi xã hội tích cực trên phạm vi toàn cầu.
Krishnamurti được sinh ra trong một gia đình Bà la môn tại Ấn Độ (khi ấy là một nước thuộc địa của đế quốc Anh). Khi còn thanh niên, Krishnamurti có cơ hội gặp gỡ với ông C.W. Leadbeater một nhà huyền bí học nổi tiếng và có vị trí cao trong Hội Thông Thiên Học tại một khu đất thuộc trụ sở chính của Hội Thông Thiên Học ở Adyar thuộc Madras (bây giờ là Chennai). Sau đó, Krishnamurti được nuôi dưỡng dưới sự giám hộ của bà Annie Besant và ông C.W. Leadbeater, những nhà lãnh đạo của Hội Thông Thiên Học lúc đó tin rằng Krishnamurti sẽ trở thành vị Thầy Thế giới trong tương lai. Krishnamurti đã bác bỏ ý tưởng này và giải tán hội Ngôi Sao Phương Đông (một tổ chức toàn cầu được lập để hỗ trợ ý tưởng này). Krishnamurti khẳng định rằng mình không thuộc bất cứ quốc tịch, tầng lớp, tôn giáo hay trường phái triết học nào, và ông dành suốt quãng đời còn lại của mình đi khắp thế giới như một nhà diễn thuyết độc lập, nói chuyện với các nhóm lớn và các nhóm nhỏ, cũng như với những cá nhân quan tâm. Krishnamurti là tác giả của rất nhiều cuốn sách. Ngoài ra, một khối lượng đồ sộ các bài nói và thảo luận của ông cũng được xuất bản. Ở tuổi 90, Krishnamurti đã diễn thuyết tại Liên Hợp Quốc về chủ đề hòa bình và nhận thức, và ông đã được trao tặng Huân chương Hòa Bình của Liên Hợp Quốc năm 1984. Buổi nói chuyện trước công chúng cuối cùng của ông diễn ra tại Madras, Ấn Độ, tháng 1 năm 1986, một tháng trước khi ông qua đời tại nhà riêng tại Ojai, California.
Những người ủng hộ ông, làm việc trong các tổ chức phi lợi nhuận, trông nom một số trường học độc lập thực hiện quan điểm của ông về giáo dục – tại Ấn Độ, Anh Quốc và Mỹ – và tiếp tục sao chép và phổ biến hàng nghìn bài nói, các cuộc thảo luận nhóm và cá nhân, và các tác phẩm khác, xuất bản chúng dưới nhiều định dạng khác nhau, bao gồm sách, audio, video, sách điện tử, internet, với nhiều ngôn ngữ khác nhau.
J.Krishnamurti, cuộc sống và những lời dạy của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con người có ảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức nhân loại trong thời đại hiện nay. Là một hiền nhân, triết gia và tư tưởng gia, ông soi sáng cuộc sống của hàng triệu người khắp thế giới: những người trí thức và những người bình thường, cả người già lẫn người trẻ. Ông tạo ra ý nghĩa căn bản và mới mẻ cho tôn giáo bằng cách chỉ rõ một cách sống vượt khỏi tất cả những tôn giáo có tổ chức. Ông can đảm đối diện những vấn đề của xã hội hiện nay và phân tích bằng sự rõ ràng có khoa học những hoạt động của trí não con người. Tuyên bố rằng sự quan tâm duy nhất của ông là “làm cho con người được tự do một cách tuyệt đối và không điều kiện”, ông tìm kiếm sự giải thoát con người khỏi tình trạng bị điều kiện sâu thẳm của tánh ích kỷ và đau khổ.
Từ đầu những năm 1920 đến năm 1986, Krishnamurti đi khắp thế giới cho đến cuối đời lúc 91 tuổi, tổ chức những buổi nói chuyện, những cuộc thảo luận, viết sách hay là ngồi yên lặng cùng những người đàn ông và phụ nữ đang tìm kiếm sự hiện diện đầy nhân ái và an ủi của ông. Những lời dạy của ông không dựa vào những hiểu biết thuộc sách vở và kinh điển nhưng dựa vào sự thấu triệt về tình trạng bị điều kiện của con người và quan điểm của ông về sự thiêng liêng. Ông không trình bày bất kỳ “triết thuyết” nào, trái lại nói về những sự việc liên hệ với tất cả chúng ta trong cuộc sống hằng ngày: những vấn đề khi đang sống trong xã hội hiện đại với sự phân hoá và bạo lực của nó, sự tìm kiếm của cá nhân để có an toàn và hạnh phúc, và sự đòi hỏi của con người để được tự do khỏi những gánh nặng tâm lý của tham lam, bạo lực, sợ hãi và đau khổ.
Krishnamurti không lệ thuộc vào bất kỳ tôn giáo, giáo phái, hay là quốc gia nào. Ông cũng không tán thành bất kỳ trường phái tư tưởng thuộc học thuyết hay chính trị nào. Trái lại ông quả quyết rằng những trường phái này chính là những yếu tố phân chia con người với con người và tạo ra xung đột lẫn chiến tranh. Ông nhấn mạnh vào thời gian và lặp lại liên tục rằng chúng ta là những con người cao quý và quan trọng nhất, rằng mỗi người trong chúng ta là phần còn lại của nhân loại và không khác biệt gì cả. Ông vạch ra sự quan trọng để tạo ra cuộc sống hàng ngày của chúng ta một chất lượng thiền định và tôn giáo sâu sắc. Ông nói chỉ có một sự thay đổi triệt để mới có thể tạo ra một cái trí mới mẻ, một nền văn minh mới mẻ. Vẫn vậy lời dạy của ông vượt khỏi tất cả những biên giới do con người tạo ra của những niềm tin tôn giáo, những cảm tình quốc gia và những quan điểm thuộc giáo phái. Cùng lúc, chúng cho một ý nghĩa và một phương hướng mới đến việc tìm hiểu của con người hiện đại về chân lý, về thiêng liêng. Những lời dạy của ông, không chỉ liên quan đến thời đại hiện nay, mà còn có tính tổng thể và không thời gian. [ Wikimedia ]