
Mở đầu
Giá trị của một học thuyết là ở chỗ kiến thiết được một nền văn minh bằng học thuyết đó. Phật Giáo Việt Nam đã có một thời tạo nên nền văn minh mới cho dân tộc, sau một thiên niên kỷ bị người Tàu cai trị.
Nền văn minh này chẳng những đã chấm dứt nổi cảnh ngoại xâm và nội loạn, mà lại còn khơi dậy tinh thần dân tộc để tổng hợp rồi dung hóa cả ba dòng tư tưởng Phật – Nho – Lão để thống nhất quốc gia theo đúng tinh thần đó.
Xuyên qua lịch sử văn minh Phật Giáo đới Lý – Trần để nhận xét rõ Tinh Thần Nhân Chủ Xã Hội của Ðạo Phật. Tất nhiên ta đã có thể hình dung ra nổi một nền văn minh Phật tương lai như thế nào. Vì nền văn minh ấy, xưa cũng như nay, đều bắt nguồn ở tinh thần Phật, để xây dựng một xã hội có nhân đạo, có tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người, mọi giống, dù theo Phật giáo hay không theo Phật giáo.
Ðể chứng minh cho nền văn minh Phật vốn thực là như thế nào, trước hết cần phải có một quan niệm về văn minh cho thật đúng nghĩa.
Quan niệm về một nền văn minh đúng nghĩa
Hai tiếng “Văn Minh” đã được đem diễn tả từ Ðông sang Tây, như hai loại khác nhau: văn minh Ðông phương và văn minh Tây phương. Rồi nhỏ nhặt hơn nữa, là chia ra nhiều nền văn minh riêng của từng quốc gia, như: văn minh Hy Lạp, văn minh Ấn Ðộ, văn minh Trung Hoa, văn minh Việt Nam v.v… Nếu quan niệm văn minh như vậy thì chỉ có thể nhìn thấy một góc cạnh của nền văn minh toàn diện mà thôi. Thí dụ: khi nói tới văn minh Ðông phương thì chỉ coi nó có giá trị về mặt tinh thần đạo đức nhiều hơn là về mặt tiến bộ vật chất. Còn nếu nói tới văn minh Tây phương thì trần truồng chỉ có giá trị tiến bộ về vật chất hơn về tinh thần đạo đức. Mà sự thực lại là như vậy.
Vì từ khi nền văn minh Âu Châu tiến bộ thì lịch sử nhân loại đã thấy diễn ra những gì qua hai cuộc chiến 1914-1918; 1939-1945, và lịch sử nhân loại đã nói lên được những tiếng nói đẹp đẽ nào bên cạnh tiếng kêu than vì nạn diệt hủng, áp bức, thống trị các giống da đỏ, da đen, da vàng dưới gót sắt của bọn thống trị?
Lại nữa, nếu lại quan niệm rằng: văn minh chỉ là sự hưng thịnh của một dân tộc, theo quốc gia chủ nghĩa, thì tức là đã đề cao chủ trương ăn cướp của bọn phong kiến thực dân, qua tinh thần chủng tộc đó. Ví thử tự hỏi xem văn minh Trung Hoa đã có được những giá trị gì, ngoài cái tinh thần “tự mãn” của người Hán, trong việc diệt chủng ở bốn chung quanh, từ xưa tới nay? Ấy là chưa kể đến những nền văn minh khác ở bên trời Âu, như tinh thần cách mạng 1789 của Pháp, tinh thần dân chủ của Anh, tinh thần quốc xã của Ðức v.v… Tất cả đều là một thứ văn minh giả tạo và phi nhân. Vì với các thứ văn minh ấy, kẻ chiến thắng nếu tự cho mình là văn minh khi đi gieo rắc ánh sáng của văn minh cho kẻ khác, thì “kẻ khác” – là bao nhiêu dân tộc chiến bại kia – lại nhìn “cái gọi là văn minh của kẻ chiến thắng họ” là dã man hết chỗ nói. Người Việt đã cảm thấy điều đó, qua cột đồng Mã Viện của văn minh Trung Hoa, qua máy đoạn đầu đài “guillotine” của văn minh Pháp quốc, qua sự tước đoạt nhân tính biến con người thành thứ công cụ của lao động sản xuất kiểu văn minh xã hội chủ nghĩa thời Staline thuộc khối Liên bang Nga Sô trước năm 1990 của thế kỷ này. Cho nên người Việt đã mất hết tin tưởng vào những thứ văn minh nọ ngoài tinh thần văn minh của Phật. Vì đạo Phật không đến với mọi người bằng thế lực của ngoại xâm, đạo Phật không đội lốt thống trị của một ngoại bang nào. Ðạo Phật chẳng hề chủ trương tiêu diệt dân tộc tính của bất cứ dân tộc nào. Ðạo Phật cũng chẳng hề kêu gọi giai cấp nào đấu tranh với gia cấp nào, bảo thủ quyền lợi cho một cá nhân, chủ thuyết nào. Ðạo Phật chỉ chú trọng giác ngộ Phật tâm và Phật tính ở mỗi con người, ở mỗi giai cấp, ở mỗi dân tộc để cùng sống và giúp tiến hóa lẫn nhau, hầu xây dựng một xã hội có lý tưởng nhân đạo, có lập trường nhân chủ, có ý thức nhân sinh thôi. Ðó là quan niệm văn minh của Phật giáo vậy.
Vì thế, nói văn minh Phật giáo không có nghĩa là nói riêng đến tinh thần đạo đức A Ðông suông thôi, rồi không nhấn vào tiến bộ khoa học, vào giải pháp áo cơm cho chúng sinh, hoặc không có nghĩa là quá thiên về văn minh vật chất Tây phương kiểu xâm lược dã man.
Bởi đạo Phật lấy Giác Ngộ Con Người để giải thoát luân hồi, cải tạo tự nhiên và cải hóa nhân sinh, thì không có một thứ tiến bộ kỹ thuật khoa học nào lại đuổi kịp được, không một thứ đạo đức nào lại có thể bì kịp khi Phật lấy “áo cơm làm đạo cả” (y bát), khi Phật lấy sự bình đẳng về màu da, tiếng nói, về chủng tộc quyền lợi, ngụ trong câu: “hết thảy chúng sinh đều bình đẳng” – Vì mọi con người sinh ra đời, máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau, cùng hiên ngang bước đi bằng đôi chân vững mạnh của mình trong sự mưu sinh, không ai có quyền hành hạ ai, mà phải biết thương yêu giúp đỡ, bảo bọc cho nhau để cùng vững tiến xây dựng cuộc sống no ấm và hạnh phúc.
Rồi thử tự hỏi xem: những tiến bộ về khoa học của các cường quốc trong việc chinh phục không gian đã làm thay đổi được những gì quan trọng trong ba nghìn nghìn thế giới, và đã thay đổi được những gì ngoài mọi khổ não do thiên nhiên chi phối: sinh, già, ốm, chết, nắng, mưa, gió, rét, lụt lội, bão táp, động đất, núi lửa, thiên tai, v.v… của cõi vô thường.
Rồi lại tử hỏi xem: nhân loại đã tự giác ngộ để tiến bộ đến những bước nào, trong “Thập pháp giới” của Phật. Ðến như bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, cũng còn phải bổ túc bằng Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, mà nhân loại cũng vẫn chưa có “Nhân Quyền”, chưa có hòa bình, như loài người hằng mong mỏi.
Nhìn sang bức màn sắt hàng ngũ Quốc Tế đại đồng của thế giới cộng sản ngày nay đã sụp đổ. Các nước cộng sản Ðông Âu không còn nữa. Ngay chính mẫu quốc Liên Sô mà những người cộng sản quốc tế thường gọi là “quê hương Cách mạng Tháng 10 Vĩ Ðại” nay cũng sụp đổ theo, vì tinh thần dân tộc của mỗi quốc gia nổi dậy. Phải chăng đó là một thất bại của chủ trương văn minh kiểu Marxisme: đã không giải quyết nổi vấn đề quyền lợi sống còn của chủng tộc, lại thiếu tinh thần giác ngộ Nhân Chủ, trong việc xây dựng lý tưởng người? nên cái nền tảng học thuyết bắt nguồn từ triết lý Duy Vật quả là không xây dựng nổi một nền văn minh nhân loại toàn diện.
Còn nhìn về bên này bức rào thưa của thế giới tự do thì các cường quốc vẫn cứ mâu thuẫn nhau vì quyền lợi, vẫn chưa ý thức được xem vai trò lịch sử tiến hóa của nhân loại phải đi về đâu; và các nước nhược tiểu thì dù có giác ngộ chân lý Phật, có muốn xây dựng một nền văn minh Phật, nhưng cũng vẫn còn cứ bị cản trở bởi tất cả những cái gì là thiếu thông cảm là thiếu giác ngộ của các cường quốc? Nên thật là chưa có cơ xây dựng nổi một xã hội lý tưởng chung cũng như riêng, theo ý muốn của nhân loại đang khắc khoải hoang mang.
Nói tóm lại, nhân loại vẫn còn phải chờ sự giác ngộ về một quan niệm văn minh đúng nghĩa, như văn minh Phật, mới có thể giải thoát khỏi những bế tắc của lịch sử, những mâu thuẫn chiến tranh, hầu mang lại hòa bình, tự do, hạnh phúc mà con người đang mong mỏi, đợi chờ.
Cơ sở kiến thiết văn minh Phật
Sau khi đã ý thức được thế nào là một nền văn minh đúng nghĩa theo tinh thần đạo Phật, không méo mó theo riêng góc cạnh vật chất hay tinh thần, chủng tộc, quốc gia hay quốc tế, thì người Phật tử mới có đủ căn bản giác ngộ để chủ đạo xây dựng một nền văn minh mới. Mà xây dựng như thế nào đây?
a) Xây Dựng Văn Minh Phật không phải chỉ là việc đưa Phật giáo ra nắm chính quyền, như một số chính khách lầm tưởng, theo kiểu “tranh quyền cướp nước” của thứ chính trị thiển cận. Vì căn bản kiến thiết văn minh Phật là ở sự giác ngộ lý tưởng Phật, chứ không ở sự tranh đoạt chính quyền.
b) Xây Dựng Văn Minh Phật cũng không phải là tìm cách tiêu diệt tất cả mọi nền văn minh khác, mọi gốc tôn giáo khác, rồi để biến mình trở thành một chính thể độc tài, một tôn giáo độc tôn. Vì hành động như vậy là phản lại tinh thần văn minh Phật: điểm này đã được Ðạo Phật Việt chứng minh, qua triều Lý với chủ trương Tam giáo đồng nguyên, để vừa phát huy tinh thần Phật, vừa giúp đỡ ngoại đạo, hòng cùng sống và giúp tiến, theo luật Nhân Quả Biện Chứng, nghĩa là không có Cái Này thì chẳng có Cái Kia; cũng như Cái Này có thì Cái Kia cũng có; cả hia; cái này và cái kia đều hỗ tương nhau mà sinh sinh hóa hóa. Chính vì lẽ sống còn cùng nhau đó mà chính quyền nhà Lý, tuy mang danh là chính quyền của Phật giáo do Phật giáo tạo nên, bởi bàn tay của các vị thiền sư nhưng trên thực tế vẫn là chính quyền của toàn dân. Cho nên có thể nói sự phồn thịnh của Nho giáo, từ nhà Trần về sau, cũng bắt nguồn từ nhà Lý vậy. Vì chính Phật giáo triều Lý đã khởi xướng nên việc xây Văn Miếu thờ đức Khổng Tử, họa hình Thất Thập Nhị Hiền, và mở khoa thi Tam Trường (1075). Nền đại học Việt Nam có từ đấy. Rồi cũng chính Phật giáo đời Lý đã khai sinh ra vị Trạng nguyên đầu tiên của nước Việt, là Lê Văn Thịnh, dù ông này sau đó có phạm tội phản quốc mà nhà Lý cũng không nỡ khép vào xử tội.
c) Xây Dựng Văn Minh Phật lại cũng không phải là việc cất nên nhiều chùa chiền, bày ra nhiều lễ nghi để mê hoặc nhân tâm, để rồi biến đạo Phật thành một thứ tôn giáo, như mọi tôn giáo tà mị đã thấy trong xã hội loài người.
Nói như thế không có nghĩa là chúng tôi bác khước tất cả việc xây chùa dựng tháp, cũng như việc tô tượng đúc chuông là những phúc báo thế gian, rất cần thiết cho cuộc đời, đồng thời làm đẹp cho đất nước, quê hương. Nhưng điều chúng tôi cần hấn mạnh là, ngoài việc tạo phúc báo trên, là Phật tử, chúng ta còn phải học giáo lý giác ngộ giải thoát một cách quán triệt. Rồi đem áp dụng vào cuộc sống hàng ngày, hầu tạo hạnh phúc cho chính bản thân, cho gia đình, cho xã hội. Ðể từ đó tạo điều kiện khuyến thỉnh những ai chưa biết đến Phật, đến đạo, hãy hướng dẫn họ về với đức Phật Thế Tôn. Công đức ấy thật là to lớn!
“Dù xây chính vạn phù đồ (bảo tháp). Không bằng làm phúc cứu co một người”
Cơm áo rất cần cho những ai đói rét, nhưng vô tích sự đối với những người dư thừa vật chất, đang bị đau khổ về tinh thần. Chỉ có giọt nước cành dương của đạo từ bi trí tuệ mới có thể xoa dịu tâm hồn khổ đau của loài người. Vậy không gì tốt đẹp hơn là: mỗi người hãy tạo cho chính mình có một đức tin chân chính. Khi đã có đức tin rồi, tức chúng ta đã xây chùa ngay trong lòng mọi người. Ðừng sợ không có chùa lớn, mà chỉ nên sợ loài người, khi nghiệp chướng nặng nề, không biết đến đạo giác ngộ Ðạo Phật.
Ðể chứng minh cho những nhận xét trên, lịch sử Phật giáo cũng đã có ghi những sự việc, như chuyện thiền sư Ðan Hà (Trung Hoa) khi đắc đạo đã đem chẻ tượng Phật ra làm củi đun bếp rồi lý luận rằng: “Khi chưa giác ngộ đạo thì phải lấy tượng Phật làm tượng trưng; còn khi đã giác ngộ rồi thì Phật ở trong lòng mình, đâu còn ở pho tượng gỗ kia nữa mà không bỏ đi?” Sau hết, dù Phật giáo cũng chia ra hai ngả đạo và đời, dù Phật giáo cũng mang ít nhiều hình thức của một tôn giáo, nhưng đó chỉ là một khía cạnh hay một phương tiện để dẫn dắt người ta đi đến chỗ giác ngộ giáo lý thôi.
d) Xây Dựng Văn Minh Phật là giác ngộ Phật tính ở ngay trong lòng người, để xây dựng một lý tưởng ở trong một xã hội lý tưởng. Trong xã hội lý tưởng đó, con người làm chủ lấy mình, và làm chủ cả vũ trụ, không có ai làm chúa loài người hết, Phật cũng không còn cần cứu độ ai nữa: Chúng sinh đã biết tự cứu lấy mình hướng theo ánh sáng chân lý do đức Phật đã chỉ dẫn, miễn sao con người có thể đạt tới chân ý nghĩa của nền văn minh Phật giáo.
Xã hội lý tưởng văn minh Phật
Ở hai phần trên đã thấy rõ quan niệm về một nền văn minh đúng nghĩa, và về một chủ đạo Kiến Thiết Văn Minh Phật Giáo, để từ đó ta có thể ý thức rõ xã hội lý tưởng văn minh Phật mà nhân loại phải đi tới.
a. Giác Ngộ Lập Trường Người: Mở rộng tầm hiểu biết về vũ trụ nhằm giải thoát cho con người khỏi khổ não bởi tự nhiên. Ðồng thời biến cải và lợi dụng những luật tắc của tự nhiên để giúp ích cho đời sống người. Ðó là chủ đạo của Phật giáo để Giải cứu con người Thoát kiếp luân hồi theo về ngả đạo. Nhưng cũng còn là chủ yếu đem bộ óc và bàn tay của con người vào việc thăng hóa vũ trụ ở ngả đời, như các nhà khoa học đang tiến tới. Vì chỉ có phương pháp thăng hóa vũ trụ để giải thoát cho con người khỏi cảnh lệ thuộc thiên nhiên chi phối. Có như thế mới giúp cho con người tiến tới cõi an lành và hạnh phúc. Ðiều đáng tiếc hận cho nhân loại, từ trước tới nay, là không mang sự giác ngộ tư tưởng, không đem phát minh khoa học ra làm thay đổi những khắc nghiệt của vũ trụ, giúp ích cho đời sống con người mà chỉ nghĩa tới việc tiêu diệt lẫn nhau để sống một cách tối vô nhân đạo. Ðể tiến hành công việc khám phá vũ trụ để tìm tới Ba nghìn nghìn thế giới của Phật, cho mãi tới ngày nay nhân loại mới toan tính đến công cuộc chinh phục không gian và tìm cách lên Sao Hỏa. Như vậy là Ðức Phật đã đi trước nhân loại về quan niệm quán thông vũ trụ kể từ 2500 năm về trước, và không biết bao nhiêu năm về mai hậu nữa.
Chúng ta tự hỏi, có lý thuyết nào, có tôn giáo nào thấy trước và thấy rõ, thấy đúng như Ðức Phật chưa? Chính vì chủ trương giác ngộ của con người để điều hòa vũ trụ, giải thoát nhân sinh (tức là sống sáng suốt trong cuộc vận hành chung của vũ trụ – là góp phần làm thăng hoa vũ trụ – là làm cho vũ trụ sáng đẹp hơn lên theo thực tại vũ trụ) mà người ta quyết nghĩa rằng: Ðạo Phật là khoa học tối cao về cả hai mặt: Viễn kiến và Thực chứng.
Ðối với người Phật tử Việt Nam ta hiện nay tuy chưa tiến bộ bằng người về khoa học chinh phục không gian, nhưng với sự giác ngộ tinh thần nhân bản, để xây dựng một nền triết học Nhân chủ đích thực; tưởng như thế cũng đủ hơn người trong cuộc chiến tranh ý thức hệ Duy Tâm và Duy Vật hiện tại rồi. Chỉ có nền triết học nhân chủ mới đưa con người thoát khỏi những ấu trĩ của hai ý thức hệ Tâm-Vật nhị nguyên khập khiễng, một chiều, luẩn quẩn và lịm chết, hầu mang lại công lý, tự do, hạnh phúc cho nhân loại mà thôi.
b. Giác Ngộ Lập Trường Dân Tộc Ðể Hỗ Tương Sinh Hoạt Xã Hội: Mỗi dân tộc có một nguồn gốc khác nhau, màu da, tiếng nói, nếp sống khác nhau. Cũng như mỗi tư tưởng phát sinh cũng do chỗ khác biệt về hoàn cảnh đó mà biến thái. Nên khi chung sống với nhau, thường phát sinh mâu thuẫn tư tưởng, kỳ thị nhau về chủng tộc, đánh giá trị nhau về trình độ tiến hóa hay lạc hậu, để rồi xâm lược nhau ở trên tất cả mọi địa hạt.
Ðiển hình cho sự xâm lược toàn diện này, có thể lấy ngay xã hội Việt Nam làm thí dụ. Vì mảnh đất bé nhỏ này đã chứa đựng bao trào lưu tư tưởng Ðông Tây Kim Cổ, và đã chịu bao nhiêu phen thống trị của ngoại bang, nhưng nhờ có căn bản tư tưởng Việt vững, lập trường dân tộc Việt bền, nên chúng ta không bị mất nguồn gốc, mất nòi giống mà còn có thể hỗ tương với các nguồn tư tưởng khác, dân tộc khác để cùng sinh tồn.
Chủ trương Hỗ Tương Sinh Hoạt này có thể chia làm hai thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất: Là nạn Bắc thuộc 1000 năm đô hộ, dân tộc Việt qua các thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Nam Ðế, Ngô Quyền… mãi đến Ðinh Tiên Hoàng mới lấy lại chủ quyền tự chủ nhưng lòng người chia rẽ… nên không thể nào thống nhất để tự cường được. Phải đợi đến đời nhà Lý, Phật giáo mới đứng ra làm công việc hỗ tương sinh hoạt cộng đồng tôn giáo, để mở cho nước Việt một thời đại mới.
Thời kỳ thứ hai: Là xã hội hiện tại thì người Việt được hấp thụ thêm văn hóa quốc tế từ bốn phương mang lại, nhưng vì chưa dung hóa kỹ nên mới phát sinh ra nhiều mâu thuẫn về tôn giáo và đảng phái, giai cấp, tranh giành nhau. Tình trạng này chỉ có thể ổn định được nhờ phương pháp “hỗ tương sinh hoạt” của Phật giáo. Ðiểm đáng tiếc trong việc áp dụng phương pháp Hỗ Tương Sinh Hoạt của Phật giáo là sau ngày cách mạng 1-11-1963, Phật giáo đã vì tinh thần dân tộc thúc đẩy quá mạnh, khiến một số người ngộ nhận là Phật giáo chủ trương tôn giáo độc tôn. Thêm vào đó là những mặc cảm tầm thường của người đời cho rằng: Phật giáo chủ trương làm chính trị (theo nghĩa hẹp của từ này) nên vội đưa ra những hành động pháp hoại lẫn nhau, khiến Phật giáo vì đó mà chịu điều khen chê không đúng sự thật. Nhưng nếu hiểu rõ phương pháp Hỗ Tương Sinh Hoạt của g ở thời ký thứ nhất trên, tất phải tin tưởng rằng: Phật giáo vẫn còn mang một sứ mệnh trong công cuộc thống nhất dân tộc và góp phần giải quyết hòa bình cho nhân loại ở tương lai. Mà lại không phải vì Phật giáo hay vì một lẽ riêng tư gì hết, ngoài lẽ sống còn của con người.
c. Giác Ngộ Tình Thương Của Con Người Ðể Giải Quyết Hòa Bình Thế Giới: Nhân loại chiến tranh vì Tham, Sân, Si. Vì chính cái bệnh tham sân sí đó đã tạo ra những nghiệp quả luân hồi, hết thế hệ này qua thế hệ khác. Hậu quả của hai cuộc thế chiến cách nay đúng 50 năm, nhân loại hãy còn sợ hãi chưa quên. Nhưng muốn giải quyết hòa bình tất không thể giác ngộ thuần tính nhân đạo, lấy tình thương ra giải quyết hết mọi mâu thuẫn như: tiêu diệt, thống trị, áp bức, bóc lột lẫn nhau. Mà đích ra là phải thay vào đó bằng những công nghiệp đại nhân, đại nghĩa là các việc giúp đỡ lẫn nhau để cùng sống và giúp tiến. Có như thế nhân loại mới mong có hòa bình được. Một triết gia kiêm chính trị gia người Việt nói: “Nhân loại chiến tranh không phải vì văn minh quá, hay ngu xuẩn quá, mà vì dưới đáy tầng thế giới còn nhiều áp bức quá. Những áp bức đó dần dần lớn lên, gây thành những cuộc chiến tranh qui mô hơn nữa…”
Ðấy là tất cả những nguyên nhân phát sinh ra chiến tranh và cũng là nguyên nhân để giải quyết hòa bình.
Nhân loại hiện nay đang đứng trước một chiều hướng tốt đẹp là phong trào vận động dân chủ, tự do, nhân quyền và hòa bình trên khắp thế giới, hay ở mỗi quốc gia, đang trên đà phát triển. Nếu người dân mỗi nước chưa ý thức được quyền lợi đích thực của mình, thờ ơ với công cuộc vận động dân chủ, tự do, nhân quyền và hòa bình thì kết quả sẽ ra sao? Câu hỏi đặt ra, tức là đã có câu trả lời rồi vậy.
Chúng ta tự hỏi xem: Ai có thể cứu được nhân loại khỏi họa chiến tranh, đói rét, bất công, áp bức, kỳ thị, độc tài đảng trị, người bóc lột người, người làm nô lệ người – Ngoài sự giác ngộ Tình Thương của nhân loại để tự cứ lấy nhân loại thì còn biết trông mong vào ai!
d. Giác Ngộ Công Bằng Xã Hội Trong Việc Xây Dựng Lại Xã: Theo lẽ tự nhiên, về mặt vật lý, hễ cái gì thiên lệch mất thăng bằng tất phải đổ vỡ. Cho nên về mặt xã hội cũng vậy, muốn tránh đổ vỡ cần phải thực hiện lẽ công bằng. Ðức Phật dạy: “Nhất nhất chúng sinh đều bình đẳng”. Vậy mà con người đã không sớm giác ngộ nguyên tắc bình đẳng giữa chúng sinh, nghĩa là không thiên lệch rồi cho phép chủng tộc, giai cấp hay cá nhân nào được ăn trên ngồi trốc dân tộc khác, giai cấp khác hay cá nhân khác.
Chủ nghĩa phong kiến đề cao tộc đảng bị đào thải! Chủ nghĩa tư bản cá nhân cũng đang bị biến thể! Chủ nghĩa cộng sản đề cao giai cấp vô sản thù hận đấu tranh đi ngược hẳn lối sống giữa con người với con người cũng đang dẫn đến chỗ hủy diệt! Chủ nghĩa dân tộc độc tôn để lãnh đạo cả thế giới loài người cũng không còn lý do tồn tại nữa! Tất cả đều thiên lệch và phi nhân, trái với lẽ công bằng nên quốc gia loạn, quốc tế cũng loạn. Loạn mãi cho đến khi nào tất cả mọi chủ nghĩa thiên lệch đều không còn tồn tại trong xã hội loài người được nữa.
Ðành rằng xã hội loài người kết hợp từ cá nhân đến gia đình và từ quốc gia dân tộc đến thế giới loài người, nhưng không thể “chỉ biết có mình, không biết có người” mà có thể yên ổn được. Cho nên lẽ sống hợp lý nhất của nhân loại vẫn là ở chỗ “Hòa” (trong lẽ sống), “Bình” (trên quyền lợi) và cùng hỗ tương nhau cùng sống và tiến mãi. Có như thế mới không còn lo có tai họa chiến tranh nào xảy tới cho loài người nữa.
e. Giác Ngộ Nội Tâm Mỗi Con Người Phật: Xã hội chi phối cả mọi người, nhưng trái lại, Ý chí của mọi người cũng có thể cải biến được xã hội. Nguyên tắc này rất hợp với tinh thần “Tự giác, giác tha” của đạo Phật. Vì sự giác ngộ của mỗi người, về Phật tính, sẽ gây ảnh hưởng tốt cho người khác quanh mình. Nói một cách khác tôn giáo, chủ nghĩa dù hay đến đâu nhưng khi đem ra thi hành mà người không hay cũng sẽ thất bại. Ðó là một nguyên tắc của Phật giáo hằng bảo trì: Trước hết phải lấy giác ngộ nội tâm con người làm điểm chính rồi sau mới nói tới cải tạo xã hội. Thật vậy, con người tốt (thiện) sẽ là những hạt giống tốt làm nở hoa, kết trái cho một xã hội người văn minh – giác ngộ và giải thoát – Ngược lại, con người xấu (ác) sẽ gây tai họa cho xã hội cũng bị xấu lây.
Trong kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật dạy: “Con người là hơn cả = nhân thị tối thắng”. Có con người là có tất cả. Và, với ý chí cương quyết, tự chủ, con người có thể thực hiện được mọi sự tốt đẹp ở đời.
Tóm lại, việc Kiến Thiết Văn Minh Phật Giáo phải làm với sự thành tâm thiện chí và bằng tất cả mọi phương châm chỉ đạo đúng đắn nhất, không thiên lệch méo mó trong mọi xu hướng có tính cách cục bộ, quyền lợi riêng tư, đảng hẹp hòi chỉ biết có đảng của mình là trên hết, bỏ quyên quyền lợi của người khác, của tập thể xã hội thì sẽ chẳng bao giờ có hòa bình, công lý, nhân chủ, nhân quyền, tự do, hạnh phúc cả.
Nền Văn Minh Phật Giáo như đã trình bày nếu được thực hiện thì sẽ là một nền văn minh chung của nhân loại, chứ không phải văn minh riêng của Phật giáo. Và ngay cả đạo Phật cũng không còn là đạo Phật trong giới hạn như ngày nay.
Vì Phật là tất cả những gì toàn Thiện, toàn Giác, toàn Mỹ của thế giới loài người xưa, nay và mai sau.
Thích Đức Nhuận