
Từ trái: Quảng Pháp, Tâm Nghĩa, Như Tiến và Như Hiền
(Viết cho ban Quản trại và trại sinh Lộc Uyển A Dục tháng 11/ ngày 11 , 12 và 13/ 2016)
Tinh sương thứ bảy, một sáng mùa thu đang nhón gót trở về cùng đất trời quận cam. Quảng Pháp lái xe và tôi ngồi bên cạnh. Hai anh em trên đường về Trung tâm huấn Luyện tu học Thích Quảng Đức. Nơi được ban Hướng dẫn Miền Nam California chọn làm trại trường cho trại huấn Luyện Đoàn Trưởng và Đoàn Phó A DỤC LỘC UYỂN… Trong câu chuyện hàn huyên trên đoạn đường không xa và cũng chẳng gần nầy cũng chỉ vây quanh những kỷ niệm không xóa mờ của những trại trường ngày tháng cũ. Tôi cứ vẫn lênh đênh trên những dư âm vàng son đó để nghe tiếng cười Pha lê bên bờ suối ngọc, nghe tiếng chuông ngân và nhịp mõ vơi đầy xen lẫn lời kinh trầm bổng vang vang giữa núi rừng huyễn hoặc dạo nào. Thời gian trôi vội vã… Ngoãnh trông đã vài thập niên lùi vào dĩ vãng. “Đâu đây nỗi nhớ dịu dàng, đâu đây vẫn cứ mơ màng dáng xưa”
Miên man tong ý nghĩ thì xe đã đến trung tâm lúc nào tưởng như nhanh lắm. Các Huynh Trưởng trong ban Quản trại đón chúng tôi bằng tất cả tình Lam diệu vợi. Cái siết tay chút vỗ về thăm hỏi mà sao nghe ấm cả không gian, ấm cả một sáng thu khi có chút gió về nhè nhẹ… Chao ôi Mây đứng lại rồi đón tôi về với mấy lời kinh xưa. Sáng nay ở giữa giao mùa. Hạ đi thu tới. gió lùa vai ai…
Tôi và Quảng Pháp dạo quanh khu vực trại khi các Trại sinh đang theo dõi cũng như đang đón nhận những bài giảng của các Huynh trưởng Giảng Viên. Trại sinh là những người trẻ lên đường hôm nay với sứ mệnh và trọng trách tự nguyện. Chịu ép mình vào khuôn khổ, vào nội lê, qui luật của tổ chức Áo lam để từ đó theo gương người trai trẻ Tất Đạt Ða khoác khổ nghiệp lên vai khởi hành vào mỗi sớm mai tìm về cội phúc.
Ban Quan Trại cũng là những Huynh Trưởng đang còn trẻ đi trước và đang ngừng lại giăng tay đón thế hệ tiếp nối cùng bước lên con thuyền Phập Pháp để cùng nhau thăng hoa đời sống.
Liên trại huấn luyện Lộc Uyển-A Dục, 2016 (ảnh: Nguyên Viên, GÐPT Pháp Vân)
Trong giờ nghĩ giải lao tôi được Đời sống Trại giới thiệu cùng trại sinh mà tôi đã có dịp gặp và sinh hoạt với các em vào ngày tiền trại của vài tuần trước đây. Sự gặp lại để kết thân hơn của hội ngộ nầy khiến lòng tôi thêm rộn ràng mở hội. Trước giờ cơm trưa Tôi đã xẻ chia những suy nghĩ và âu lo về tổ chức với Trại Trưởng Liên Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng Như Tiến Nguyễn Hữu Dũng, Một Huynh Trưởng, một người em mà tôi trân quí, cũng như Huynh Trưởng Nguyễn Hữu Triết, Mỹ Dung… cùng nhiều huynh trường khác… Tôi ngồi với các em đông đúc vây quanh mà nghe một trời quá khú kỷ niệm hiện về vây bủa. Cũng những gương mặt nầy cũng những tâm hồn áo lam nọ, thuở xa xưa tứ cái tuổi mười bảy mười tám vào đời hoặc nhỏ hơn. Sự gắn bó với Áo lam và cái tình giữa anh em chúng tôi vẫn gắn như ngày xưa cũ… Tôi tiếc, những huynh Trưởng, bởi các “Chướng Duyên” đã rời xa tổ chức chức. Tôi mơ ước được nhìn thấy họ quay về như một chuyển hóa nội tâm tô bồi tổ chức thành một mái nhà hùng mạnh năm xưa… Ô kìa Đức Phật như vừa, Giăng tay mừng đón gió mùa trăng thanh. Các em vén lại tơ mành. , nhìn người trở lại vườn xanh thuở nào…
Tôi bước vào giảng đường với Huynh Trưởng Diệu Lan Đặng Xuân Hương, một Huynh trưởng khác trong nhiều Huynh Trưởng mà tôi hằng quí mến bởi cái tâm và lòng của Diệu lan với tổ chức Áo lam để sẻ chia cùng trại sinh trong đề tài Ý NGHĨA TÊN TRAI cũng như BỔN PHẬN, TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐÒAN TRƯỞNG. Với tôi đây là một đề tài mà tôi hằng yêu thích để được gởi đến trại sinh trong các trại huấn luyện A DỤC… Sự buông bỏ ái dục và chuyển hóa nội tâm của A DỤC VƯƠNG là một điều mà một cá nhân cần học hỏi đề áp dụng vào đời sống cũng như sự đóng góp tô bồi cho Phật pháp của A DỤC vương là tấm gương mà mỗi Huynh trưởng trại sinh cần noi theo. Sự tham dự trại của trại những người áo lam đang đối diện tôi cũng đủ nói lên tinh thần hy sinh và mong mỏi được góp phần tô bồi đạo pháp. Cảm ơn em có tấm lòng, của người ban phát nụ hồng trao cho… Lời kinh quyện với câu hò. Mình đang bước xuống con đò năm xưa…
Đứng trước trại sinh tôi đã cố ngưng sự xúc động của riêng mình bởi nhiều lý do. Lý do trước tiên là tôi tìm thấy lại chính mình của hơn 3 thập niên trước ở những trại trường giữa núi rừng trùng điệp mà nụ cười tiếng hát lời ca như còn vang vọng. Lý do thứ hai là tôi đang đối diện với những người trẻ hôm nay, đa số được sinh ra và lớn lên nơi quê người nhưng vẫn sử dụng ngôn ngữ Mẹ Việt Nam và đang trở về uống cụm nước đầu nguồn trong từng ca dao nơi mà Phật pháp đã gắn liền với dân tộc… Xin ngã nón chào anh, chào chị và chào các em. Xin nghiêng mình để đón nghe hạnh phúc đang luân lưu theo từng dòng máu ngược xuôi trong thân thể… Thì ra tôi mới quay về, bước theo từng ánh trăng thề hôm nao. Bỗng như có những ngọt ngào. Bỗng nghe như tiếng ai chào mùa xuân… và lý do kế tiếp là tôi được gởi đến trại sinh hình ảnh của một con người có hết tật cả những gì mình có được trong cuộc đời hư tạm nầy. Và cũng chỉ vì cái NGÃ nhằm phục vụ cho Ngũ Ấm mà sanh ác tâm… Tôi sẻ chia với trại sinh cái nhìn và suy nghĩ của tôi về con người A Dục đó, tôi cùng Huynh Trưởng Diệu Lan cũng đã sẻ chia kinh nghiệm của những người cần đoàn đi trước và cũng từ đây chúng tôi lắng nghe trại sinh góp ý về đề tài mà tôi vừa trao gởi… Đề tài trở nên sôi động hơn khi trao nhau những khó khăn gặp phải lúc cầm đoàn và những chướng duyên. Tôi kết thúc bài giảng theo đúng thời gian qui định bằng một ca khúc với nụ cười vang lừng khi ngoài kia con nắng vẫn dịu dàng rơi xuống trên mái lều của trại sinh dưới những tàng cây…
Đêm vội xuống và bếp lửa bùng lên theo sự sắp xếp khéo léo của khối sinh hoạt cũng như đời sống trại tiếp theo tiếng gọi lửa của tôi. Toàn thể Ban Quản Trại cũng như trại sinh đã “nhảy lửa” thật đều đặn nếu không muốn nói đến chữ tuyệt vời. Phần văn nghệ lửa trại đã thu hút khán giả và trại sinh… Cuộc vui rồi cũng tàn theo đêm trôi nhanh. Chúng tôi vây quanh bếp lửa dần tàn, tay trong tay, vai sát vai để lắng nghe Huynh Trưởng trại trưởng trong câu chuyện lửa tàn. Tiếng anh nói như vừa gom trọn niềm vui, nữa như thổn thức bởi những ước muốn chưa thành toàn. Tâm tình của anh gởi đến Ban Quản trại và trại sinh còn mãi âm vang trong tôi cho đến lúc nầy… Vẫn tay trong tay, chúng tôi cùng cất tiếng hát vọng giữa trời đêm trong BÀI CA CÚÔI LỬA, khi bếp lửa dần tàn “Tình thương sáng lên khi đêm phủ kín lòng đêm lắng sâu âm u. Tình thường sáng lên khi đêm lửa tàn ta hát cho thêm gần nhau. Ánh sáng đêm sắp tàn cầm tay nhìn nhau dừng rời xa cho nắng phai…”… bài hát được hát nhỏ xuống và hòa theo màn đêm vô tận. Chúng tôi lặng lễ rời khỏi khuôn viên của lửa trại để trở về sửa soạn cho Lễ Phát Nguyện của Trại sinh.
Giữa tranh tối sáng lập lèo trong bóng điện mờ và bóng đêm. Tất cả các trại sinh đã quỳ trước chánh điện để được các trưởng tử của Như lai chuyển ánh sáng Tư Bi Trí Tuệ và Dũng cảm đến cùng các huynh trưởng cao niên và cao cấp của tổ chức để từ đây những ngọn nến mang ánh sáng này chuyển đến cùng trại sinh. Trước ánh sáng phát đi từ ngọn nến, Trại sinh đã đọc lời phát nguyện mang ý nghĩa trọn đời hy hiến cho tổ chức Áo lam và cho đàn em trong mai hậu. Buổi phát nguyện diễn ra trang nghiêm và đầy tình đạo là một khắc sâu khác vào tâm cảm của trại sinh…
Tôi bước ra khỏi chánh điện sau lễ Phát nguyện khi ngoài trời đã có gió lạnh về khiến tôi phải choàng thêm chiếc áo. Tôi ngước nhìn trời cao khi ánh trăng rầm đang tỏa sáng… Đôi tay chắp lại với thành tâm. Tôi cảm ơn Chư Phật chư Bồ tát đã cho anh chị em Áo Lam chúng tôi được có cơ duyên thấm nhuần Phật pháp, có cơ duyên hiểu thấu được tình thương yêu cần gởi đến tha nhân để từ đó làm niềm vui cho bản thân. Tôi cảm ơn những người trẻ hôm nay đã nhìn thấy được những Hư Huyễn trong cuộc đời mà tự nguyện dấn thân mang vui cứu khổ… Nầy em, nầy chi, nầy anh… mình đã là mây, tâm đã sông, đã là gió, nước, suối trong ngần, đã là mưa đổ cùng dương thế, thì nghĩa gì thân với bụi trần…
Khuya chủ nhật 11/ 13/ 2016
Tâm Nghĩa NgôVânQuy