
Ảnh của Nhiếp ảnh gia Trần Tuấn Việt
Trong số những người theo đạo Phật ngày nay, có rất nhiều người hiểu biết lệch lạc về ý nghĩa thực sự của những nghi thức cầu nguyện. Ví như, các buổi lễ cầu an và sám hối có xu hướng thu hút đám đông nhiều hơn so với các buổi tụng kinh thông thường. Tất nhiên thờ phượng trong sự ăn năn giúp giảm bớt tội lỗi và gia tăng phước lành. Do đó là sự háo hức. Song, mặt khác dù đọc và tụng kinh Phật giúp tăng trí tuệ cho ai đó, nhưng sự hiểu biết về kinh điển thiêng liêng này thường có vẻ phiến diện và thực hành không hiệu quả. Do đó là miễn cưỡng. Rốt cuộc lại, thái độ tín ngưỡng đối với đạo Phật như vậy có nên chăng?
Khi tôi lần đầu tiên tiếp cận với đạo Phật, một vị trưởng lão có tấm lòng nhiệt thành đã dạy tôi nhiều điều. Điều đáng nhớ và đáng ngạc nhiên nhất là sự khác biệt giữa nghi lễ và ý nghĩa của mọi việc, và ông nhấn mạnh rằng tất cả chúng ta tu theo đạo Phật đều nên biết về điều đó. Trong cuộc sống thực, không nghi ngờ gì nữa, nghi lễ là nghi lễ và ý nghĩa của mọi thứ hoàn toàn khác nhau, cho dù bạn có thực hành Phật giáo hay không. Vậy tại sao vị trưởng lão đáng kính này lại cảm thấy cần phải đặc biệt nhấn mạnh với chúng ta sự khác biệt giữa hai phạm trù nói trên? Chỉ sau hơn một thập kỷ theo Phật giáo, tôi mới dần dần nhận ra sự khác biệt tinh vi và tinh tế giữa chúng trong tư duy và thực hành Phật giáo.
Các nghi lễ ở đây đề cập đến hình thức quy định của các sự kiện và quy trình, có thể là năm buổi lễ buổi sáng và buổi tối, lễ bái, thiền định, tụng kinh, lễ bái để sám hối, lễ dâng cúng cho các vị Phật, Bồ Tát… mà ý nghĩa đề cập đến mục đích, bản chất và tinh thần thực sự của các thuật ngữ và nguyên tắc Phật giáo, chẳng hạn như bản chất trống không của vạn vật, Trung đạo, Duy thức học, hay Tam niệm xứ như được giải thích trong kinh điển.
Hai sự kết hợp tương đối đôi khi xuất hiện trong động lực mang ý nghĩa nghi lễ này: những người bình thường, không quen thuộc, những người bị thu hút bởi các nghi thức và các vị thánh, những người thấu hiểu sự thật; nghi lễ cho thấy vô số hình thức rõ ràng của tất cả các hiện tượng, trong khi ý nghĩa cho thấy bản chất bình đẳng của chân tướng của chúng.
Ở khắp mọi nơi, có những người theo đạo Phật bị thu hút bởi các nghi lễ trong khi lơ là trong việc hiểu ra ý nghĩa hay sự thật thực sự. Họ thể hiện sự kiên trì trong việc tuân thủ các quy định của công việc và các hoạt động. Hàng ngày, họ lễ Phật và tụng kinh tại nhà, và thường xuyên tham gia các khóa học khác nhau được tổ chức tại chùa, chẳng hạn như khóa tu tập và thiền định trong bảy ngày, lễ cầu nguyện và sám hối… Họ thường hài lòng với sự hiểu biết mơ hồ về các giáo lý Phật giáo và đối với họ, mục đích của việc tuân theo các nghi lễ là để ngăn chặn những điều bất hạnh và đạt được công đức cho họ trong cuộc sống bây giờ và tương lai.
Do đó, một số lượng lớn người có thể tụng Tâm Kinh mỗi ngày mà không biết ý nghĩa thực tế của tánh không, hoặc tụng Kinh A Di Đà không quan tâm đến căn bản của Tịnh độ.
Cách đây rất lâu ở triều đại nhà Đường (618-907), Fada, người trở thành một nhà sư khi mới 7 tuổi, đã tụng Diệu Pháp Liên Hoa Kinh 3.000 lần, và cảm thấy quá ít lợi ích trong việc thực hành của mình, anh ta quyết định viếng thăm Lục Tổ Huineng (638-713).
Nhưng lần đầu tiên gặp gỡ, Fada có phần coi thường, cho rằng sư Lục Tổ trông khá bình thường và dường như không có phẩm chất đặc biệt nào. Vì vậy, khi đến giờ cúng bái, anh ta thậm chí còn không thèm chạm trán xuống sàn. Lục Tổ thấy vậy liền khiển trách rằng: “Nếu không chạm trán xuống sàn thì không nên lễ lạy. Chắc hẳn bạn đã có điều gì đó trong đầu và đang suy nghĩ rất sâu. Hãy cho tôi biết những gì bạn đã học được cho đến nay?” Fada này trả lời, “Tôi đã tụng Diệu Pháp Liên Hoa Kinh đến 3.000 lần rồi.”
Lục Tổ đã trả lời: “Nếu bạn tiếp tục tụng kinh 10.000 lần, hiểu sâu về ý nghĩa của nó và không cảm thấy tự mãn, bạn sẽ trở thành một pháp hữu tốt. Nhưng bây giờ bạn tự mãn và không ăn năn chút nào. Tôn thờ một cách cung kính trong lễ lạy là để loại bỏ sự kiêu ngạo. Tại sao bạn không chạm đầu xuống đất và thể hiện sự tôn kính của bạn? Bạn nên biết rằng nếu bạn giữ một bản ngã trong tâm trí của mình, điều đó có nghĩa là bạn có tâm trí phân biệt mình với người khác và làm điều đó không mang lại lợi ích gì cho bạn. Nếu không hiểu ý nghĩa của một câu thán điển, ngay cả khi bạn đã tụng nó 10.000 lần, nó chỉ đơn thuần là thốt ra những câu kinh và nghe chúng, nhưng hoàn toàn không hiểu được chân lý.”
Hoắc nhiên xấu hổ, Fada hỏi, “Nếu chỉ có vậy thì chẳng phải Phật tử chúng ta chỉ hiểu ý nghĩa của kinh mà không phải tụng kinh thường xuyên là đủ sao?” Để trả lời điều đó, Lục Tổ đã đọc một bài kệ:
“Khi bị che lấp là do Kinh Pháp Hoa xoay chuyển.
Tâm sáng suốt chuyển Kinh Pháp Hoa.
Tụng kinh kéo dài mà không hiểu
Tự biến mình thành kẻ thù của chơn nghĩa”.
Lục Tổ nói câu đầu tiên, “Tâm bị che lấp bởi Kinh Pháp Hoa”, có nghĩa là tụng kinh mà không hiểu đúng về kinh đó khiến bản thân bị ràng buộc bởi lời nói, đồng thời từ bỏ ý nghĩa của chúng. “Tâm sáng suốt chuyển Kinh Pháp Hoa” chỉ ra rằng ai đó tụng kinh với sự hiểu biết thực sự về ý nghĩa của nó và thực hành sẽ phát huy hết ý nghĩa của kinh.
Fada được Lục Tổ khai sáng, đã trở về trong sự biết ơn. Kể từ đó, ông làm việc không mệt mỏi để hiểu được ý nghĩa và tinh thần của tất cả các kinh điển. Cụ thể, mặc dù anh ta đã nắm chắc Kinh Pháp Hoa thâm sâu, anh ta vẫn tiếp tục tụng kinh đó nhiều lần.
Vậy tại sao người ta phải tiếp tục tụng kinh ngay cả khi họ đã có kiến thức sâu sắc về một bộ kinh nào đó? Bởi vì tụng kinh-cầu nguyện liên quan đến sự thành tâm trang trọng khi trải qua một nghi lễ trong khi sự hiểu biết liên quan đến việc nhận thức ý nghĩa thực sự của những tư tưởng Phật giáo. Thật vậy, cả hai đều rất cần thiết đối với thực hành của một Phật tử, đòi hỏi mức độ gắn kết và hòa hợp giữa chúng.
Ritual and Meaning in Buddhism
Venerable Guan Cheng | Translated By Andrew Yang
Among Buddhists nowadays there is a typical lopsided ritual versus meaning phenomenon. Prayer and repentance ceremonies, for example, tend to attract a far larger crowd than regular chanting sessions. Indeed, of course, worshipping in repentance helps reduce sins and increases blessings. Hence the eagerness. Yet on the other hand, although reading and chanting Buddhist scriptures also helps in gaining someone wisdom, these sacred writings often seem abstruse and hard to follow. Hence the reluctance. After all, is such an attitude towards Buddhism a correct one?
When I first approached Buddhism, a big-hearted elder taught me many things in earnest. The most memorable and surprising of all, as I recall, was a difference between the ritual and meaning of things, and he stressed that all of us cultivating Buddhism should know it. In real life, without a doubt, rituals are rituals and the meaning of things are something different altogether, whether you practise Buddhism or not. So why did this venerable elder feel a specific need to emphasize to me the difference between the two? It is only after spending more than a decade in Buddhism that I gradually came to realize the fine and subtle distinction between them in Buddhist thinking and practice.
Rituals here refer to the prescribed format of events and processes, be they the five morning and evening ceremonies, worshipping, meditation, chanting, worshipping in repentance, feast offering to the devalokas, or Mount Meng feeding. And meaning and significance refers to the purport, essence and true spirit of Buddhist terms and principles, such as the nature of emptiness of all things, Middle Path, Consciousness Only school, or Three Contemplations of the Meditative Mind as expounded in the Buddhist canon.
Two relative combinations sometimes emerge in this ritual-meaning dynamic: ordinary, uninitiated people who are obsessed with formalities and saints who are thorough in understanding the truth; rituals show the myriad apparent forms of all phenomena, while meaning reveals the equal nature of their true suchness.
Everywhere there are Buddhist followers obsessed with rituals while negligent over getting to the real meaning or truth. They show perseverance in keeping the prescribed formality of affairs and activities. Every day they worship Buddha and chant sutras at home, and regularly attend various sessions held at the temple, such as seven-day study and meditation camps, prayer and repentance ceremonies, or Mount Meng Feeding performances. They are often content with a vague understanding of Buddhist tenets and for them, the aim of following rituals is to avert misfortune and gain them merit for life now and in future.
Therefore, a fair number of people may chant the Heart Sutra every day without knowing the actual meaning of emptiness, or Amitabha Sutra not caring about the fundamentals of the Pure Land.
Long ago in the Tang dynasty (618-907), Fada, who became a monk at the age of seven, had chanted the Wonderful Dharma Lotus Flower Sutra 3,000 times, and feeling too little gains made in his practice, he decided to pay a visit to Master Huineng the Sixth Patriarch (638-713).
Anyhow, on first meeting the master, Fada looked down somewhat on him, thinking he looked rather ordinary and did not seem to possess any special quality. Thus when the time came for him to worship, he did not even bother to touch his forehead to the floor. The Sixth Patriarch saw it and reprimanded him, “If you don’t touch your face to the floor, you’d better not prostrate. You must have had something on your mind and been in deep thoughts. Tell me just what you have learned so far?” To this Fada replied, “I have chanted the Wonderful Dharma Lotus Flower Sutra as many as 3,000 times already.”
The Sixth Patriarch answered, “If you keep on until you have chanted the sutra 10,000 times, with a deep understanding of its meaning and yet don’t feel smug, you will make a good fellow practitioner. But now you are complacent and not at all penitent. Worship reverentially in prostration is to eliminate arrogance. Why did you not touch the head to the ground and show your veneration? You should know that if you keep an ego in your mind, that means you have a mind differentiating yourself from other people, and doing that brings you no merit. Without understanding the meaning of a scripture, even if you have chanted it 10,000 times, it’s merely uttering the chants and hearing them, but not getting to the truth at all.”
Embarrassed, Fada asked, “If that’s the case, then wouldn’t it be enough for us Buddhists to just understand the meaning of sutras without having to chant regularly?” In answer to that, the master said a mouthful,
“An obscured mind is turned by the Lotus Sutra.
A lucid mind turns the Lotus Sutra.
Prolonged chanting without comprehension
Makes oneself an enemy of the meaning.”
The Sixth Patriarch said the first sentence, “An obscured mind is turned by the Lotus Sutra”, to mean that chanting a sutra without properly understanding it makes oneself bound by words while at the same time giving up on what they mean. “A lucid mind turns the Lotus Sutra” indicates that someone chanting a sutra with a real grasp of its meaning and puts it into practice gives full play to the meaning of the sutra.
Fada, enlightened by the Sixth Patriarch, left in gratitude. From then on, he worked tirelessly on getting to the meaning and spirit of all the scriptures. For example, even though he already had a firm grasp of the profound Lotus Sutra, he went on chanting it time and again.
Why, then, would one have to continue chanting even if they already possess a thorough knowledge of a certain sutra? Because chanting has to do with the formal sincerity in going through a ritual while understanding has to do with perceiving the true significance of Buddhist thoughts. Indeed, both are essential to a Buddhist’s practice, requiring a level of cohesiveness and harmony between them.