
“Nhìn về phía trước: Hướng dẫn cho những người mới bắt đầu ở tuổi thơ” là một chủ đề rất rộng và sẽ được chia thành hai phần: (I) những gì người trẻ có thể mong đợi từ Phật giáo và (II) những gì Phật giáo mong đợi từ những người trẻ.
I. Giới trẻ có thể mong đợi điều gì từ Phật giáo
Những người trẻ tuổi phụng sự cho Đạo Pháp một cách tha thiết mong ước tương lai của đạo Phật sẽ tươi sáng. Khi ánh sáng của Phật giáo tỏa ra đầy hứa hẹn, các Phật tử trẻ tuổi sẽ cảm thấy rằng cuộc sống tràn đầy hy vọng và ý nghĩa, và họ sẽ có cảm giác bình yên thực sự. Trong thế giới của chúng ta, nơi mà những thay đổi có thể xảy ra trong chớp mắt, nơi cuộc sống của một cá nhân rung động trong dòng nước mạnh mẽ của vũ trụ, điều đầu tiên chúng ta muốn kiểm tra một cách nhẹ nhàng là câu hỏi liên quan đến sự phát triển trong tương lai, cần được xem xét từ các khía cạnh sau:
a. Những thay đổi và phát triển trên thế giới.
b. Sự phát triển và thay đổi trong lịch sử.
c. Những thay đổi và phát triển trong xã hội.
d. Những thay đổi và phát triển trong tôn giáo.
e. Những thay đổi và phát triển trong cuộc sống hàng ngày.
f. Những thay đổi và phát triển trong chính Phật giáo.
a. Những thay đổi và phát triển trên thế giới
Thế giới mà chúng ta đang sống hiện nay được gọi là “thế giới saha”, có nghĩa là thế giới của sự khổ sở (duhkha, thuật ngữ tiếng Phạn cho sự đau khổ). Nó có thể che khuất bản chất Phật thanh tịnh bên trong chúng ta, do đó nó được gọi là “vỏ bọc” hay “chướng ngại”; nó xoắn và xoắn trong trái tim của chúng ta như một sợi dây chằng, do đó nó được gọi là “nút thắt”; nó đẩy chúng ta vào tầng lớp dày đặc của igorance (avidya) khi chúng ta bị cuốn vào bánh xe luân chuyển (luân hồi), do đó nó được gọi là “pur-suer”; nó làm cho chúng ta bối rối và làm cho chúng ta mất đi bản chất thật của mình, do đó nó được gọi là “ảo tưởng.”
Ngoài những từ trên, các thuật ngữ như “lửa”, “hàng độc”, “hổ và sói”, và “bẫy” đã được dùng làm ẩn dụ cho sự đau khổ. Chúng ta có những loại đau khổ nào trong thế giới saha này? Chúng ta đau khổ khi mong muốn của chúng ta không được thực hiện. Chúng ta đau khổ vì sự bất hòa trong mối quan hệ tương quan cá nhân của chúng ta liên quan đến tình yêu, sự ghét bỏ, sự xa cách và sự gắn bó với nhau. Chúng ta đau khổ vì những mất mát tự nhiên do gió, mưa, lửa và động đất gây ra. Chúng ta mệt mỏi về thể chất vì bệnh tật, lão hóa và cái chết; chúng ta đau khổ về tâm lý vì tham, sân, si. Nỗi khổ này là vô biên, vô lượng, và vô tận. Mặc dù chúng ta sống trong một thế giới saha như vậy, chúng ta không hoàn toàn có hạnh phúc nhưng nó chỉ là thoáng qua so với những đau khổ mà chúng ta phải chịu đựng. Khi những đứa trẻ sơ sinh được sinh ra, âm thanh đầu tiên của chúng là một tiếng khóc, như thể họ đã biết rằng cuộc đời đầy đau khổ.
Đạo Phật không phải là một tôn giáo đòi hỏi con người phải giống như khúc gỗ khô héo hay tro lạnh. Nó không yêu cầu chúng ta phải ngồi một cách dè dặt trên mép ghế của mình để nói chuyện nghiêm túc mọi lúc về các loại đau khổ trên thế giới này. Phật giáo là một tôn giáo thăng hoa – đề cao hòa bình và niềm an lạc cho mọi người. Nếu Phật giáo là một tôn giáo thăng hoa, tại sao lại nhấn mạnh đến nỗi khổ trong cuộc sống như vậy? Là vì nếu không biết đau khổ thì sẽ không hiểu được hạnh phúc. Không có đau khổ, không có động lực thúc đẩy chúng ta chủ động tìm hiểu về đạo Phật. Đau khổ là động lực thúc đẩy chúng ta tu theo con đường Phật giáo.
Thế giới saha này dần dần có thể phát triển thành thiên giới. Trong Phật giáo, thiên đàng ám chỉ hai mươi tám tầng trời chứa trong Tam giới. Đây là sáu tầng trời của cõi Dục giới (Kama-dhatu), mười tám tầng trời chứa trong cõi Sắc giới (Rupa-dhatu), và bốn tầng trời nằm trong cõi Vô sắc giới (Arupa-dhatu).
Các thiên thể sống khác biệt rõ rệt so với các sinh vật trong thế giới saha, và tuổi thọ của họ rất dài. Tuổi thọ của các thiên thể trong thiên đàng Caturmaharajika có thể được lấy làm ví dụ. Trong số tất cả các thiên đàng, thiên đàng Caturmaharajika là gần nhất với thế giới saha của chúng ta. Một ngày một đêm trên thế giới này tương đương với năm mươi năm của con người. Tuổi thọ của chúng sinh trên thế giới này là năm trăm năm thiên thể, tương đương với chín triệu năm của loài người. Nói cách khác, nếu chúng ta có thể tái sinh vào Caturmaharajika, thiên đàng cao hơn thế giới saha của chúng ta một bậc, chúng ta có thể sống đến chín triệu năm. Chúng ta sẽ không thấy rằng “tuổi thọ hiếm khi lên đến bảy mươi”, cũng như không thấy cuộc sống tám trăm năm của Peng Zu hiếm như vậy. Nếu chúng ta có thể tái sinh trong các cõi trời của Cõi Vô Sắc, thì tuổi thọ của chúng ta sẽ dài tới tám vạn đại kiếp. Đây là một khoảng thời gian dài đến mức vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta và không thể diễn tả được bằng lời.
Bên cạnh tuổi thọ, cuộc sống hạnh phúc trên thiên đàng này rất đáng chú ý. Ví dụ, khi những thiên tử này cần mặc y trang, y trang sẽ xuất hiện ngay lập tức và nếu họ muốn ăn, thức ăn sẽ xuất hiện ngay lập tức. Mọi ước vọng và mong muốn đều được toại nguyện. Hơn nữa, vóc dáng, nơi ở và sự thanh thản mà họ đạt được nhờ thiền định cũng rất đáng chú ý. Xem xét các điều kiện của thế giới hiện tại, nhiều người trong chúng ta đang tiếp cận các tiêu chuẩn của cuộc sống trên trời này. Chúng ta có điều hòa không khí trong mùa hè nóng nực và hệ thống sưởi trung tâm trong mùa đông lạnh giá. Nếu chúng ta thấy tốc độ của ô tô và tàu hỏa quá chậm khi chúng ta đi đến những nơi xa xôi, thì máy bay sẽ vận chuyển chúng ta với tốc độ phi thường. Chúng ta có tất cả các loại thức ăn ngon và món ngon để đáp ứng khẩu vị của chúng ta. Các chương trình phát thanh ở Hoa Kỳ có thể được nghe đồng thời ở Đài Loan. Khi chúng ta bật ti vi, các trận bóng hoặc các trận đấu quyền anh sẽ xuất hiện một cách kỳ diệu trong nhà của chúng ta. Chúng ta thực sự có thể có nhiều đòi hỏi và mong muốn được hoàn thành. Như vậy, về mặt vật chất, thế giới này của chúng ta đang dần phát triển thành một thế giới thần tiên trên trời.
Mặc dù các điều kiện trong thế giới saha này có thể thay đổi từ đau khổ sang hạnh phúc và hạnh phúc trên thiên đàng là vô biên, nhưng hạnh phúc như vậy không phải là hạnh phúc cuối cùng. Rốt cuộc, ngay cả một tuổi thọ chín triệu năm hay tám vạn kiếp cũng chỉ là một tuổi thọ hữu hạn. Khi thế giới saha của chúng ta tiếp tục phát triển, nếu mọi người bắt đầu tin Phật và niệm danh hiệu Phật, thì thế giới này dần dần có thể trở thành Thế giới Cực lạc. Không giống như các thế giới trên trời, Thế giới Cực lạc là một vùng đất thanh tịnh, nơi không cần ham muốn nhục dục để tiếp tục cuộc sống. Đó là một nơi rộng lớn và tuyệt vời, nơi không tồn tại sự trồi sụt, thay đổi, thối rữa và hủy diệt.
Mặt đất của Tịnh độ này được bao phủ bởi bảy loại đá quý tự nhiên. Đó là một thế giới không có nguy cơ núi cao, đại dương, biển, sông, hẻm núi và những thứ tương tự. Thời tiết ở đó luôn hoàn hảo. Không có các mùa xuân, hạ, thu, đông. Những ngôi nhà được làm bằng bảy loại đá quý. Nước ở đó có tám phẩm chất tuyệt vời và ngọt ngào như mật hoa. Nhiều loại hoa sen quý có ở khắp mọi nơi.
Khi một người bước lên thảm hoa, vết lõm sâu 4 inch được tạo ra nhưng thảm sẽ nhanh chóng đàn hồi sau mỗi bước. Vì những người sống trong cõi Tịnh độ này được tái sinh từ hoa sen, nên không có sự khác biệt về giới tính. Họ không có bất kỳ lo lắng về tài chính. Không ai tích trữ thức ăn vì thức ăn có ở khắp mọi nơi và khi họ ăn, họ ngay lập tức cảm thấy no và mãn nguyện. Cõi Tịnh độ tuyệt vời này có nhiều loại nhạc cụ vui tai phát ra âm thanh của Phật pháp. Nó cũng có hàng trăm ngàn loại đèn chiếu sáng khác nhau, làm cho nó trở thành một nơi tráng lệ và rực rỡ.
Có thể thấy, Thế Giới Cực Lạc này còn cao siêu và kỳ diệu hơn nhiều so với cõi trời. Tại sao ngày càng có nhiều người ở Đài Loan niệm danh hiệu Phật? Bởi vì họ muốn thay đổi thế giới loài người này thành một vùng đất thuần khiết. “Khi tâm ta thanh tịnh, đất đai sẽ thanh tịnh” là một câu nói của Phật giáo. Ý tưởng này không được coi là trí tưởng tượng đơn thuần hay một câu chuyện cổ tích. Theo kinh, cõi Cực Lạc này cách chúng ta mười triệu cõi Phật; một cõi Phật là trichiliocosms. Điều này có nghĩa là khoảng cách giữa thế giới saha của chúng ta và cõi Tịnh độ cực lạc là một vạn triệu cõi Phật. Con số thiên văn này có thể khiến người ta khiếp sợ.
Tuy nhiên, kinh cũng nói với chúng ta rằng khi chúng ta rời khỏi thế giới con người của mình, chúng ta có thể được tái sinh vào Thế giới Cực lạc này trong giây phút suy nghĩ. Ngày nay, các nhà chiêm tinh học Mỹ vẫn phải mất vài ngày để hạ cánh trên mặt trăng, cách Trái đất hơn hai nghìn dặm. Tuy nhiên, chúng ta chỉ mất một chút thời gian suy nghĩ để đến Cực Lạc, nơi cách xa vạn triệu cõi Phật. Đó là bởi vì Tịnh độ không phải là một thế giới khoa học hay vật chất: nó là một thế giới của đức tin. Khi có nhiều người bắt đầu niệm danh hiệu của Đức Phật, thế giới của chúng ta sẽ dần trở thành một cõi tịnh độ.
Khi Cõi Tịnh độ của thế giới chúng ta tiếp tục phát triển, nó cuối cùng sẽ phát triển thành “Thế giới Hoa sen” (Cõi Tịnh độ của Vairocana). Trong Thế giới Hoa sen này, trichiliocosms có thể được kết hợp trong một hạt bụi nhỏ. Bạn có thể nhớ lại câu chuyện kinh điển trên mạng lưới nổi tiếng của Indra. Khi ánh hào quang của những viên ngọc trai trên mạng phản chiếu lẫn nhau, toàn bộ vũ trụ được nhìn thấy trong chúng. Ánh hào quang chiếu khắp đất trời. Thời gian và không gian hòa vào nhau. Không có sự phân biệt giữa tâm trí và vật chất.
Cõi Phật từ mười phương và tất cả những hạt bụi trong vũ trụ đều xoay quanh tương sinh tương khắc. Trong một thế giới vô cực, nơi mọi thứ được kết nối hoàn hảo với nhau, mọi thứ đang được trải rộng khắp ba chiều và mười phương. Không có bên trong cũng không có bên ngoài, không có quá khứ cũng không có hiện tại, không có thiếu hụt dưới bất kỳ hình thức nào. Một thế giới như vậy phân chia quan điểm của thời gian và không gian và xóa bỏ ranh giới của sự trống rỗng và sự tồn tại. Khái niệm về quyền sở hữu và không sở hữu đã bị loại bỏ. Nếu lý tưởng về Thế giới Liên Hoa được hoàn thành, chúng ta có thể sống trong một thế giới như vậy mà không cần lo lắng về việc mình giàu hay nghèo; chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc và mãn nguyện. Không chỉ món ăn dành cho người sành ăn sẽ có hương vị tinh tế mà những bữa ăn đơn giản cũng sẽ hấp dẫn không kém. Tương tự, cả những lời khen ngợi và lăng mạ đều giống như những giai điệu dễ chịu.
Trong Thế giới Liên Hoa, bất kể đó là ngọn cỏ hay ngọn cây, người hay vật, không có sự khác biệt giữa một và nhiều hoặc giữa thanh tịnh và bất tịnh. Nếu Phật giáo được tinh tấn thực hành, thì giai đoạn hoàn toàn bình đẳng sẽ không khó đạt được. Ngày nay, nhiều người tin rằng ngày tận thế sắp đến. Xu hướng tư tưởng này thậm chí còn phổ biến trong nhiều tầng lớp trí thức. Đây là kiểu tâm lý quá bi quan và thiếu trách nhiệm. Nếu Phật tử phát nguyện từ bi và đưa đạo Phật vào thực hành, thì thế giới của chúng ta không chỉ trở thành thiên đàng mà còn biến thành cõi tịnh độ. Thế giới Hoa sen thậm chí có thể hiện thực hóa ngay tại đây trong thế giới này của chúng ta.
b. Sự phát triển và những thay đổi trong lịch sử
Thời tiền sử được gọi là thời đại của sức mạnh thần thánh. Trong thời gian này, trí tuệ của người dân vẫn chưa được phát triển cho lắm. Họ sống đơn giản, ăn thịt sống và sống trong hang động. Họ bị áp đảo bởi nhiều loại lực lượng tự nhiên, các hiện tượng tàn phá khủng khiếp như gió, lũ lụt, mưa và lửa. Khi đối mặt với những lực lượng bên ngoài dường như không thể tránh khỏi và không thể vượt qua này, họ tràn ngập nỗi kinh hoàng. Họ tưởng tượng rằng một số loại hoặc nhiều loại thứ mạnh mẽ và bất khả chiến bại đang kiểm soát số phận của họ và trừng phạt loài người. Họ tìm kiếm sự tha thứ thông qua các nghi thức hy sinh và thờ phượng khác nhau.
Điều này dẫn đến kỷ nguyên thần quyền, trong đó rất nhiều vị thần được thờ phụng. Trong con mắt của người nguyên thủy, khi sấm rền và tia chớp xẹt qua bầu trời, thần sấm nổi giận. Khi có gió giật mạnh, thần gió đang phô trương sức mạnh của mình. Mưa như trút nước và lũ lụt là những lời cảnh báo từ thần mưa. Hơn nữa, mặt trời, mặt trăng, núi, sông, suối, biển, sao, mây, khói, và những thứ tương tự đều là biểu hiện của các vị thần tương ứng của họ. Đá và đất cũng có thể được gọi là các vị thần. Người nguyên thủy tin rằng bất cứ thứ gì họ chưa biết đều phải là thần thánh. Việc tạo ra mọi thứ, bao gồm cả sự hình thành vũ trụ, được thực hiện bởi ý chí của các vị thần tối cao.
Ngày nay ở Đài Loan, ngay cả một cây lớn cũng có thể được coi là một vị thần. Điều này cho thấy loại ý tưởng “thần lực” này không chỉ giới hạn ở người nguyên thủy.
Về sau, thời đại thần quyền từ từ phát triển thành thời đại quyền lực quân chủ. Khi phương thức sống dần dần thay đổi từ gia đình sang bộ lạc, một người thông minh hơn và có năng lực hơn sẽ vượt lên trên những người còn lại để đoàn kết tất cả các bộ lạc và do đó trở thành thủ lĩnh. Nhà lãnh đạo là người đàn ông quyền lực nhất trong vùng đất của mình. Với quyền lực tuyệt đối của mình, “khi nhà lãnh đạo ra lệnh giết các sĩ quan của mình, các sĩ quan của ông ta bắt buộc phải chết.” Đáng ngạc nhiên, thời đại này tiếp tục trong vài nghìn năm.
Nhiều người trong số các trí thức ngày nay tin rằng kỷ nguyên sức mạnh con người sẽ dần phát triển thành kỷ nguyên “sức mạnh cuộc sống”. Cuộc sống bao gồm tất cả các loại sinh vật sống. Trong tương lai, tất cả chúng sinh đều có quyền tồn tại bình đẳng. Điều này sẽ bao gồm những con người có nguồn gốc gia đình đa dạng, ngoại hình, tính cách và trí thông minh cũng như những người giàu, nghèo, mạnh, yếu, khôn ngoan hay ngu ngốc.
Quyền tồn tại thậm chí sẽ mở rộng cho tất cả các loại động vật, bò sát và côn trùng. Ngày nay, ngày càng có nhiều quốc gia văn minh thiết lập luật bảo vệ động vật, và nhiều quốc gia đã thành lập các khu vực bảo vệ động vật hoang dã. Đài Loan có một ngày bảo vệ động vật. Nhiều người phản đối việc đối xử tàn ác với động vật vì tất cả các loài động vật đều là sinh vật sống. Từ quan điểm vật chất, tất cả chúng ta đều được tạo ra từ xương, thịt và da. Nếu chúng ta gửi lông, da, xương và thịt động vật đến phòng thí nghiệm và phân tích chúng, chúng ta sẽ phát hiện ra rằng tất cả chúng đều được tạo thành từ carbon, hydro, oxy, nitơ, canxi, sắt và các nguyên tố hóa học khác. Mặc dù cảm xúc, suy nghĩ, hành vi và kiến thức của tất cả các loài động vật không phát triển như con người, nhưng nhận thức của chúng về nỗi đau và hạnh phúc là điều hiển nhiên. Tất cả các loài động vật, từ động vật bậc cao, chẳng hạn như con người, cho đến những loài thấp hơn như kiến và côn trùng, đều có chung một động lực muốn sinh tồn và sợ hãi cái chết, tất cả chúng ta đều mong muốn thoát khỏi đau đớn và tìm kiếm hạnh phúc. Khi kỷ nguyên của quyền lực con người tiếp tục phát triển, chúng ta chắc chắn sẽ bước vào kỷ nguyên “sức mạnh sự sống”, kỷ nguyên được Đức Phật đề cao khi ngài nói, “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”.
Dần dần, mọi người bắt đầu nhận ra rằng có điều gì đó không ổn với quyền lực quân chủ. Họ bắt đầu khởi nghĩa và phát huy sức dân. Khi thời gian thay đổi, mọi người đều có thể hưởng một số quyền nhất định. Rào cản giữa kẻ thống trị và kẻ bị trị đã bị phá vỡ. Mọi người bắt đầu quản lý công việc của mình. Ví dụ, ở Trung Hoa Dân Quốc, Ba Nguyên tắc của Người dân: Chủ nghĩa Dân tộc, Dân chủ và Hạnh phúc Xã hội được thực hiện. Nhân dân, thông qua bầu cử, lựa chọn những người có năng lực và phẩm chất làm công chức. Quyền tự do lựa chọn được tôn trọng vì mọi thứ được xác định phù hợp với quyền của người dân.
Kỷ nguyên hiện đại của quyền lực nhân dân mang lại cho con người nhiều quyền tự do và quyền lợi, đồng thời bảo vệ phúc lợi của họ. Đây có phải là điều cuối cùng? Có thể đây là mức độ lý tưởng của mọi người?
c. Những thay đổi và phát triển trong xã hội
Kiểu xã hội đầu tiên được hình thành trong nền văn minh sơ khai là xã hội du mục. Để duy trì cuộc sống của mình, các dân tộc du mục đã di chuyển từ nơi này đến nơi khác để tìm nước và cỏ cho đàn gia súc của mình. Dần dần, họ định cư và phát triển thành một xã hội nông nghiệp. Thông qua kiến thức về nông nghiệp, họ sống nhờ vào thực vật và thức ăn trồng được.
Sau cuộc cách mạng công nghiệp, cơ cấu xã hội thay đổi nhanh chóng. Tất cả các quan điểm và giá trị hiện có đều bị thách thức. Trong một xã hội công nghiệp, mọi người liên tục nhìn ra bên ngoài để theo đuổi kiến thức vật chất. Thế giới vật chất là đối tượng của việc kiểm tra, nghiên cứu, thử nghiệm và sử dụng. Cách nhìn duy vật này không chỉ tô màu kiến thức của chúng ta về thế giới vật chất mà còn làm hỏng kiến thức của chúng ta về lĩnh vực tinh thần.
Sự nhầm lẫn trong kiến thức dẫn đến sự băng hoại về đạo đức. Kỷ nguyên công nghiệp cho phép con người có cuộc sống thoải mái về vật chất nhưng nó cũng mang lại cho họ khát vọng mạnh mẽ về của cải vật chất. Hơn nữa, sự nhầm lẫn càng trầm trọng hơn vì ranh giới giữa bản thân và người khác không bị xóa bỏ và mối quan hệ giữa tâm trí và thế giới vật chất không hài hòa. Không chỉ những tiến bộ về công nghệ và những cải tiến về khả năng sử dụng vật chất sẽ không mang lại tự do và bình đẳng giữa con người và cách họ tương tác với thế giới vật chất, vật chất sẽ tạo ra xung đột, khiến con người chống lại con người và con người chống lại thế giới vật chất. Ví dụ, một mặt, sự ra đời của bom hạt nhân có tác dụng ngăn chặn các cuộc xâm lược quân sự; mặt khác, nó đã tạo ra sự mất lòng tin của tất cả các nước phát triển cao trên thế giới. Sự phát triển công nghiệp của xã hội chỉ làm phong phú thêm các khía cạnh vật chất của cuộc sống. Sự phát triển của đời sống tinh thần và việc nâng cao các tiêu chuẩn đạo đức của chúng ta phải chờ đợi sự xuất hiện của “xã hội đạo đức”.
Xã hội của chúng ta đang dần trở nên thuận lợi hơn khi được chứng minh bằng việc ngày càng có nhiều tòa nhà chọc trời và lượng thời gian thư giãn cũng như các hoạt động giải trí phong phú. Tuy nhiên, tâm trí của mọi người đang trở nên hư hỏng và si mê hơn. Sự phát triển của xã hội tỷ lệ thuận với số người khao khát một cuộc sống nội tâm cân bằng. Đời sống vật chất không thể mang lại cho chúng ta sự bình yên vĩnh viễn; chỉ có Chân lý tự nó là mãi mãi. Hoa Kỳ là một quốc gia phát triển cao, nhưng người dân của họ cần niềm tin tôn giáo hơn bao giờ hết. Họ rất cần sự tu dưỡng tinh thần trong cuộc sống hàng ngày. Một số thậm chí còn cảm thấy rằng các dịch vụ và lời cầu nguyện của Công giáo và Tin lành là không đủ. Ví dụ, tại lễ xuất gia năm 1977 tại Fo Guang Shan, một tiến sĩ tâm lý học, một thạc sĩ ngôn ngữ học, và hai giáo sư đã vượt hàng ngàn dặm từ Mỹ để đến Đài Loan để được xuất gia làm tăng ni Phật giáo.
Gần đây, nhiều tăng ni Tây Tạng, Nhật Bản và Chi-nese (Đài Loan) đã sang Âu Mỹ để giảng dạy Phật Pháp. Ở đó, Phật giáo bắt rễ với tốc độ rất nhanh. Ở một số nơi, Phật giáo vẫn đang trong giai đoạn phát triển rất sơ khai, nhưng ở những nơi khác đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình. Riêng ở Mỹ, tại nhiều trường đại học có tổ chức các nhóm nghiên cứu Phật học, các lớp học thiền, các buổi nói chuyện và thảo luận về Phật giáo. Đại học Harvard có Chương trình Nghiên cứu Phật học. Tại Anh, sinh viên của các trường Đại học Oxford, Cambridge và London đã tổ chức các câu lạc bộ Phật giáo rất tích cực. Cùng với sự phát triển công nghệ của xã hội, con người sẽ dần nhận ra việc tu dưỡng tôn giáo hay tâm linh là một nhu cầu thiết yếu của đời sống. Như vậy, từ quan điểm xã hội học, tương lai của Phật giáo là tươi sáng và đầy hy vọng.
d. Những thay đổi và phát triển trong tôn giáo
Tôn giáo cũng lâu đời như sự tồn tại của con người. Trong thời gian trước đó, mọi người tin vào “tôn giáo của tự nhiên.” Người nguyên thủy không hiểu những thay đổi của tự nhiên, do đó họ tôn thờ tất cả các hiện tượng tự nhiên như các vị thần. Họ tôn thờ mặt trăng, mặt trời, mưa, sấm sét, bầu trời và trái đất. Chúng ta thậm chí có thể nói rằng thực sự không có khía cạnh nào của tự nhiên mà họ không tôn thờ hoặc tin là thần thánh. Các tôn giáo tự nhiên phát triển từ từ để trở thành tôn giáo của các vị thần và linh hồn. Các sự kiện siêu nhiên được cho là biểu hiện của các vị thần và linh hồn. Các truyền thuyết trong làng tuyên bố rằng vị thần đã trở thành người phàm, hoặc vị thần tương tự đã trở thành một vị thần đáng được tôn thờ.
Sau đó, tôn giáo của các vị thần và linh hồn dần dần phát triển thành một tôn giáo thờ cúng anh hùng. Người đã lập công lớn trong dân sẽ được chọn thờ cúng. Mọi người tôn thờ anh ta, coi anh ta là một anh hùng và coi anh ta như một vị thần. Ngày nay, tôn giáo thờ anh hùng rất phổ biến ở Đài Loan. Tuy nhiên, chúng ta tin rằng điều này sẽ dần dần phát triển thành “tôn giáo của sự thật”.
Khi chất lượng giáo dục được cải thiện, trí tuệ của con người cũng phát triển theo. Mọi người càng cần phải tin vào một tôn giáo tương ứng với sự thật. Tôn giáo của sự thật không nói về “sức mạnh thần thánh”, thứ khiến con người mất đi các giác quan và khả năng tự nhận thức. Tôn giáo của sự thật không dựa trên niềm tin mù quáng do sợ hãi thiên nhiên, cũng không phải là tôn giáo chỉ tôn thờ con người vì những hành động anh hùng nhất định. Một tôn giáo của sự thật phải đối mặt với tất cả các vấn đề của vũ trụ và cuộc sống của chúng ta. Nó phải có thể giải quyết các xung đột nội tâm của mọi người và phát triển các thành viên của họ. Nó sẽ cho phép mọi người đạt được trạng thái niết bàn, trạng thái không có nỗi đau của sinh và tử. Đạo Phật là một con đường tâm linh đáp ứng các yêu cầu của một tôn giáo chân lý như vậy.
Phật giáo là một hệ thống tín ngưỡng dựa trên trí tuệ. Nó không dựa trên mê tín. Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, và tất cả đều có tiềm năng trở thành một vị Phật. Phật tính chứa đựng tất cả mọi thứ; về cơ bản nó là tinh khiết. Nó không được sinh ra và nó sẽ không chết. Mọi sự vật, hiện tượng đều được hình thành do sự kết hợp của tất cả các nguyên nhân và điều kiện đúng đắn (hetupratyaya). Chúng không có ngã vì tất cả đều là biểu hiện của tâm thức được thay đổi bởi ý thức. Mục đích của việc tuân theo giáo lý Phật giáo là đạt đến giác ngộ tối cao, trí tuệ phát triển đến mức cao nhất và cuộc sống phát triển đến trạng thái hoàn hảo. Đây đều là những lý do để chúng ta tràn đầy tin tưởng vào sự phát triển trong tương lai của Phật giáo.
e. Những thay đổi và phát triển trong cuộc sống hàng ngày
Trong Phật giáo, lối sống Phật giáo sớm nhất là lối sống khất sĩ. Hàng ngày, các nhà sư đều đi khất thực. Trong thời kỳ đầu của Phật giáo, Đức Phật và các tín đồ của Ngài đều đi khất thực để đáp ứng nhu cầu cơ bản của họ. Họ chỉ ăn một lần một ngày. Sau khi khất thực, họ sẽ ngồi dưới tán cây để tu hành.
Khi Phật giáo truyền bá về phía đông đến Trung Quốc, sự khác biệt trong cấu trúc xã hội và lối sống khiến cho việc khất thực không còn phù hợp nữa. Vì vậy, “canh tác” (farming Chan) dần trở thành một nếp sống của các nhà sư. “Canh tác” khiến các nhà sư hoặc ni cô tự lực cánh sinh kể từ khi họ vừa làm ruộng vừa thực hành. Chan Master Baizhang Huaihai nổi tiếng với câu nói của ông rằng, “Một ngày không làm việc là một ngày không có thức ăn.” Sư Phụ Taixu gợi ý rằng các nhà sư nên “làm việc canh tác.” Ông tin rằng vì việc làm nông không cản trở việc tu tập siêng năng, nên lao động chân tay có thể cùng tồn tại với việc tập luyện. Vì vậy, cả việc làm ruộng và tu tập siêng năng dần dần phát triển thành nếp sống của cộng đồng trồng trọt.
Trong cuộc sống tu luyện tăng thân, một người từ bỏ cuộc sống thế tục để sống một cuộc sống tu tập không nhất thiết phải sống trong rừng để thiền định, hoặc làm ruộng để kiếm ăn. Một người có thể tham gia vào một cộng đồng tăng thân bằng cách sống trong một tu viện nơi tất cả đều bình đẳng, tất cả đều giúp đỡ lẫn nhau, và tất cả đều thăng tiến trong việc tu dưỡng tâm linh của họ thông qua những nỗ lực hòa hợp chung của họ. Trước đây, kiểu canh tác cộng đồng này chỉ diễn ra ở các cá thể. Giờ đây, nhiều cơ sở khác cũng cung cấp hình thức tu luyện cộng đồng này cho các học viên Phật giáo tại gia, chẳng hạn như các nhóm tiếp nhận Phật giáo và các nhóm Phật tử tại gia khác. Khi canh tác cộng đồng này tiếp tục phát triển, nó sẽ dẫn đến điều gì? Nó sẽ dẫn đến một cuộc sống giải thoát. Nếu chúng ta quyết tâm với nhau, nghiên cứu và thảo luận với nhau, và thúc đẩy nhau nghiên cứu sâu hơn về đạo Phật, chúng ta có thể thực sự sống trong giải thoát.
Để có một cuộc sống giải thoát có nghĩa là thực sự hiểu và chân thành đánh giá cao rằng tất cả các hiện tượng là vô thường (anitya) và trống rỗng của một bản chất nội tại riêng biệt. Nó cũng có nghĩa là có khả năng giải thoát bản thân khỏi gông cùm của đau khổ trong cuộc sống, nhờ đó đạt được sự bình an, hạnh phúc và giải thoát cả tinh thần và thể chất. Từ nhận thức về vô ngã, người ta có thể từ bỏ ham muốn chiếm hữu một cách tự nhiên. Từ sự hiểu biết rằng tất cả các hiện tượng phát sinh từ nguồn gốc có điều kiện và không có bản chất tự nhiên, người ta sẽ thoát khỏi bất kỳ sự phụ thuộc nào và có thể vượt qua trạng thái mê lầm của sự nắm bắt và bám víu. Khi chúng ta sống với nhận thức và hiểu biết như vậy, thì việc chúng ta giàu có hay không không quan trọng. Tất nhiên, sự giàu có về tài chính có thể mang lại cho chúng ta nhiều tiện lợi, nhưng chúng ta cũng có thể yên tâm như nhau nếu không có nó. Sự giàu có được tìm thấy trong bản thân mình quan trọng hơn nhiều so với việc sở hữu của cải. Ở một vị trí cao chắc chắn là vinh quang, nhưng ở một vị trí khiêm tốn hoặc chỉ là một công dân bình thường cũng có thể chấp nhận được và ít nhất sẽ không làm tổn hại đến lòng tự tôn của chúng ta. Rốt cuộc, chúng ta biết rằng Phật tính bên trong chúng ta bình đẳng với tất cả các vị Phật.
Lúc nào cũng khỏe mạnh chắc chắn là may mắn, nhưng ốm đến mức suy nhược hoặc chết thì không hẳn là đáng sợ. Trong mắt một người được giải thoát, sinh, lão, bệnh, tử giống như bong bóng nước. Ngay cả khi bong bóng vỡ, thiên nhiên của nước vẫn tĩnh lặng và yên bình. Mặc dù cơ thể vật lý của chúng ta vẫn trải qua sinh, lão, bệnh, tử, nhưng đây chỉ là những thay đổi về mặt vật chất; không có sinh, lão, bệnh, tử trong Phật tánh thực sự của chúng ta. Nếu chúng ta có thể hiểu được rằng “cái chết” chỉ là cái chết của thân thể vật chất, cái chết của các hiện tượng, thì chúng ta có thể nhận ra rằng đức Phật của chúng ta không có sự phân biệt của sinh và tử. Ví dụ, vàng có thể được đúc thành bông tai, vòng tay và nhẫn, nhưng những thứ này không phải là vàng. Bản chất của vàng không thay đổi.
Nếu thông qua tu luyện, Phật tính thực sự của một người được nhận ra, sống hay chết, có hay không, đến hay đi, sẽ không thành vấn đề vì không có sự khác biệt giữa sinh và tử. Rõ ràng là chiếm hữu và không chiếm hữu là như nhau; đến và đi là một. Sau đó, một cuộc sống hoàn toàn tự do và giải phóng có thể được hình thành. Ngày nay, khi trí tuệ của con người bắt đầu nở rộ, họ sẽ sớm nhận ra tầm quan trọng của việc tu luyện theo đạo Phật và sẽ sớm sống cuộc đời giải thoát. Khi trình độ xã hội tiếp tục phát triển, ngày càng có nhiều người được sống tự do, hạnh phúc và được giải phóng.
f. Những thay đổi và phát triển trong chính Phật Giáo
Đức Phật xuất hiện trong thế giới saha này với một mục đích chính, để thiết lập Phật giáo như một hướng dẫn cho tất cả chúng sinh, giúp họ thức tỉnh và đi vào con đường của Phật quả. Vì vậy, Phật giáo dựa trên hạnh phúc của con người và thường được gọi là “Phương tiện con người”. Sau khi Đức Phật thành đạo khoảng 2.500 năm trước, Phật giáo Nguyên thủy trở nên phổ biến ở Ấn Độ. Dưới thời trị vì của Vua Asoka, Phật giáo lan rộng về phía nam đến Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan và Indonesia, nơi Phật giáo Nguyên thủy vẫn còn được thực hành trong khi Phật giáo Đại thừa (Đại thừa) hiện nay chủ yếu được thực hành ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Tây Tạng.
Khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc vào thời nhà Hán, Phật giáo Đại thừa đã thịnh hành. Tuy nhiên, trong khi các học thuyết Đại thừa đang được giảng dạy vào thời điểm đó, thì tinh thần và sức mạnh thực tế của Đại thừa vẫn thiếu. Sau đó, nhiều nhà sư lỗi lạc đã đến truyền giảng Phật giáo Đại thừa và các học thuyết của Trường phái Đại thừa bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở Trung Quốc. Ở Trung Quốc Đại lục, có bốn địa điểm tu hành linh thiêng rất nổi tiếng: Núi Phổ Đà là của Quán Thế Âm Bồ tát; Núi Cửu Hoa là của Địa Tạng Vương Bồ tát; Núi Nga Mi là của Bồ tát Phổ Hiền; và núi Wutai là của Bồ tát Manjusri. Bốn vị Bồ tát này là các vị Bồ tát Đại thừa. Lý tưởng Bồ tát nhấn mạnh đến việc thực hành Phật pháp cho người tại gia. Trên thực tế, Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền đều xuất hiện với tư cách là những hành giả tại gia — chỉ có Địa Tạng Vương Bồ tát xuất hiện với tư cách là một tu sĩ. Như vậy, Phật giáo Đại thừa là Phật giáo nên được thực hành bởi những người Phật tử tại gia.
Mục tiêu của việc thực hành Phật giáo là để tâm sáng tỏ hầu thấy được Phật tánh của chúng ta, biết được sự thật về sự thơ mộng của cuộc sống, giải thoát khỏi sự trói buộc của sinh, tử và phiền não, và đạt được tự do tối thượng cũng như sự bình tĩnh. Chúng ta muốn đạt được tất cả những mục tiêu này cho chính mình cũng như cho tất cả người dân và động vật. Những người chưa chứng ngộ là những người không biết gì về sự thật của vũ trụ và cuộc sống. Họ bị dính mắc vào ham muốn và bám víu và do đó xoay vòng trong vòng sinh tử. Những người tu theo đạo Phật chỉ vì sự giải thoát của riêng họ, coi ba cõi là nhà tù và con người là kẻ thù của họ. Một khi họ từ bỏ thế giới để trở thành tăng hay ni, họ sẽ không nghĩ đến việc tái nhập vào thế giới này một lần nữa.
Mặt khác, những vị bồ tát có tinh thần Đại thừa nhận ra rằng cả bản ngã và mọi hiện tượng đều không tồn tại. Họ trau dồi trí tuệ tuyệt vời mà không bị ràng buộc bởi sự sống và cái chết. Họ nuôi dưỡng lòng từ bi vĩ đại mà không dính mắc vào niết bàn. Bằng cả trí tuệ và trí lực, họ đạt đến con đường tối cao của chư Phật, đồng thời giải thoát tất cả chúng sinh. Trí tuệ và niềm trắc ẩn của các vị bồ tát là tối cao nhất. Nhờ giúp đỡ người khác mà bản chất của trí tuệ và lòng từ bi được nhận ra và trạng thái của sự toàn vẹn được thực hiện. Trí tuệ mà không có trắc ẩn thì chỉ có kiêu ngạo và từ bi không có trí tuệ chỉ là cảm xúc trần tục. Tinh thần của bồ tát nhìn tất cả chúng sinh một cách cảm thông và coi họ như một phần của chính mình. Tinh thần này cho phép những người khôn ngoan trở thành những người hiểu biết, nhân hậu có tình thương, dũng cảm làm việc thiện, và tất cả chúng sinh nương tựa vào nhau và tồn tại hài hòa.
Trong quá khứ, Phật giáo ở Trung Quốc Đại lục do Tăng đoàn chủ trì, trong khi các tín đồ đóng vai trò hỗ trợ. Một thực hành Theravada tiêu chuẩn cho người xuất gia là sẵn sàng từ bỏ cuộc sống thế tục và từ bỏ những ham muốn và sở thích; đây là tư duy về việc rời bỏ thế tục. Nếu tất cả tín đồ thành tâm đưa Phật giáo vào sinh hoạt của mình, dùng tinh thần của Tứ đại Bồ tát để truyền bá Phật giáo Đại thừa, thì Phật giáo Trung Quốc đã không có được tình trạng như ngày nay. Ngày nay ở Đài Loan có rất nhiều sinh viên đại học và những người trẻ tuổi được học hành đến nơi đến chốn, sống có lý tưởng cao đẹp. Không chỉ chấp nhận đạo Phật, họ còn muốn đưa lòng từ bi vào thực hành bằng cách cống hiến hết mình cho đạo Phật. Nếu có nhiều người trẻ tham gia cùng chúng ta trong phong trào từ bi này, và sử dụng trí tuệ và lòng từ bi không mệt mỏi để ảnh hưởng đến người khác, thế giới tương lai sẽ trở thành một thế giới của “Cõi Phật”.
Một số người đã nói rằng nếu Phật giáo Trung Quốc suy tàn, thì Phật giáo sau đó sẽ được du nhập lại từ phương Tây. Nhận định này có thể không đúng, vì chúng ta đã bắt đầu thấy một cuộc phục hưng Phật giáo mới đang từ từ diễn ra. Đạo Phật đang bắt đầu bén rễ trở lại trong xã hội của chúng ta. Đây là thời đại mà tất cả chúng ta học cách ứng xử công việc của mình với tâm trí của Đức Phật, để hướng đến đa số tinh thần của Đức Phật, và đặt ra các tiêu chuẩn đạo đức của mình dựa trên tấm gương của Đức Phật.
II. Phật giáo mong đợi điều gì ở giới trẻ
Phần đầu tiên đề cập đến những gì người trẻ có thể mong đợi từ Phật giáo. Phần này sẽ đề cập đến những gì Phật giáo mong đợi ở những người trẻ tuổi. Phật giáo ban đầu là một tôn giáo dành cho giới trẻ nhưng không hiểu sao lại bị nhầm lẫn là tôn giáo dành cho người già. Ví dụ, một số người sẽ sử dụng “Chờ cho đến khi tôi già đi” như một cái cớ để không học Phật pháp bây giờ. Họ dường như nghĩ rằng Phật giáo là một tôn giáo chỉ dành cho người già và người ta không thể trở thành một Phật tử trừ khi tóc của tất cả mọi người đã bạc và tất cả răng của họ đã bắt đầu mục. Bởi vì kinh được tụng vì lợi ích của người chết, một số người tin rằng Phật giáo là một tôn giáo dành cho người chết. Tất cả những điều này là sự hiểu lầm. Trong các bức tranh Phật giáo, có thể thấy Phật Thích Ca, Quán Thế Âm Bồ tát, Văn Thù Bồ tát, Phổ Hiền Bồ tát và Địa Tạng Vương Bồ tát được miêu tả là những người trẻ tuổi. Đạo Phật cũng là một tôn giáo dành cho giới trẻ.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được ba mươi lăm tuổi khi Ngài giác ngộ, theo tiêu chuẩn của chúng ta, là một tuổi rất trẻ. Sư Huyền Trang, một trong những vĩ nhân nhất trong lịch sử Trung Quốc, chỉ mới hai mươi sáu tuổi khi ông quyết định đến Ấn Độ để mang nhiều kinh Phật về Trung Quốc. Với sức trẻ, khát vọng hiên ngang và bản lĩnh của mình, ông đã làm phong phú thêm nền Phật giáo Trung Quốc và để lại vô số kho tàng văn hóa cho các thế hệ sau. Trong kinh điển Phật giáo đồ sộ và lịch sử, những việc làm hiển hách của nhiều Phật tử trẻ tuổi đã được ghi lại. Sumati là một trong những ví dụ như vậy. Mặc dù Sumati chỉ là một cô gái trẻ, nhưng Manjusri, một người có phẩm hạnh và uy tín cao, đã phải cúi đầu trước cô. Ngoài ra, như đã nói trong Kinh Pháp Hoa, Long Nữ chỉ mới tám tuổi khi thành tựu Phật quả ở phía namThế giới Vô Cực. Vì vậy, tuổi tác không tạo ra bất kỳ sự khác biệt nào.
Đạo Phật không coi thường giới trẻ, cũng không kỳ thị phụ nữ.
Vào thế kỷ thứ tư, có một nhà sư rất được kính trọng tên là Sengzhao. Ông là một trong bốn đệ tử lớn của Kumarajiva. Mặc dù qua đời ở tuổi 31 còn non nớt nhưng ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm lớn. Đặc biệt, bộ luận mang tên ông đã để lại dấu ấn khó phai mờ về văn hóa Phật giáo và Trung Quốc. Trong suốt quá trình lịch sử, Phật giáo đã nuôi dưỡng và hun đúc rất nhiều người trẻ tuổi, những người đã cống hiến hết mình cho sự phát triển và thịnh vượng của chính Phật Giáo. Sudhana là nhân vật nổi tiếng nhất trong Kinh Avatamsaka. Cậu là một cậu bé khiêm tốn đã kêu gọi năm mươi ba vị hiền triết và bồ tát để tìm kiếm con đường đúng đắn và thảo luận về trạng thái tâm của tất cả các vị Phật và Bồ tát. Anh ấy được đón nhận một cách trân trọng ở mọi nơi anh ấy đến. Từ đó có thể thấy rằng Phật giáo chắc chắn không chỉ là một tôn giáo dành cho người già; nó cũng là một tôn giáo cho giới trẻ.
Không thể phủ nhận thực tế là các phương pháp thuyết giảng được sử dụng trong một số ngôi chùa có thể không phù hợp với công chúng. Để khuyến khích các tín đồ tại gia phát triển tâm thức của họ, các phương pháp tu luyện trong gia đình cần được quan tâm. Nhưng một số bậc Thầy, vì bản thân họ đã buông bỏ, có xu hướng mong đợi những tín đồ tại gia của họ ăn chay, xuất gia và tuân theo những lời dạy trước của các tăng ni. Điều này đã tạo ra một khoảng cách giao tiếp giữa các bậc thầy và các tín đồ tại gia. Ngoài ra, tình trạng bất ổn trong xã hội trong những năm gần đây cũng gây bất lợi cho Phật giáo. Do đó, kể từ cuối thời nhà Minh, sự phát triển của Phật giáo đã bị cản trở. Sự xáo trộn gây ra bởi cuộc nổi dậy Taiping trong thời nhà Thanh đã ảnh hưởng đến Phật giáo. Những đòn giáng gần đây mà Phật giáo gặp phải ở Trung Quốc Đại lục là một trở ngại lớn. Phật giáo vẫn đang trải qua những thời kỳ khó khăn ở đó. Sau những xáo trộn như vậy, không có gì ngạc nhiên khi nhiều công việc của Phật giáo đã không được thực hiện theo lý tưởng ban đầu. Với nhân lực và nhân tài không bằng thời kỳ hoàng kim của Phật giáo trong các triều đại nhà Đường và nhà Tống, Phật giáo Trung Quốc đang ở giữa một cuộc khủng hoảng chưa từng có. Sống trong thời đại như vậy, các Phật tử trẻ nên làm việc để tôn vinh tinh thần Phật giáo thực sự và khôi phục lý tưởng của Phật giáo. Phật giáo phải được thiết lập vững chắc như một tôn giáo cho giới trẻ. Để biến điều này thành hiện thực, cần phải thảo luận về những gì Phật giáo mong đợi ở người trẻ và những gì người trẻ phải làm để trở thành trụ cột của Phật giáo.
Thanh lọc bản thân bằng giới luật và Phật pháp
Nếu những Phật tử trẻ tuổi muốn giải thoát cho người khác cũng như cho chính họ và trở thành trụ cột của Phật giáo, họ phải có lòng từ bi và sẵn sàng phấn đấu cho lý tưởng của cuộc sống. Họ phải phát triển nhận thức về bản thân và có ý chí kiên cường. Nền tảng của những thuộc tính này đến từ sự tự thanh lọc bản thân thông qua giới luật Phật giáo và Pháp. Nếu bạn không thanh lọc bản thân, làm sao bạn có thể thanh lọc xã hội và những người khác? Vì vậy, ưu tiên cho những Phật tử trẻ tuổi muốn hoàn thiện mình hơn là giữ gìn giới luật và thực hành Chánh pháp.
Nói chung là chắc chắn có nhiều giới luật. Những người xuất gia giữ giới luật của họ trong khi những người cư sĩ tại gia giữ giới luật cho những đời sống hộ gia đình. Trong số các giới luật dành cho người tại gia có: Ngũ giới, Bát giới và Bồ tát giới. Tất cả chúng ta ít nhất nên tuân giữ Năm Giới sau đây, là nền tảng cho hầu hết các giới luật khác.
Kiêng sát sinh.
Kiêng ăn trộm.
Kiêng các hành vi tà dâm.
Kiêng nói những lời không chính xác.
Kiêng uống thuốc say.
Để có một xã hội hài hòa và hạnh phúc, mọi người nên giữ vững Năm giới. Cơ sở của Năm giới là “không làm cho người khác những gì bạn không muốn người khác làm cho mình.” Ngày nay, nhiều tín đồ Phật giáo muốn có một cuộc sống lâu dài, nhưng họ lại lấy đi mạng sống của những người vô tội. Họ muốn giàu có, nhưng họ ăn cắp và nhận hối lộ. Họ muốn có một gia đình hòa thuận, nhưng họ lại phá vỡ sự yên bình của gia đình người khác. Họ muốn có một cái tên tốt cho mình, nhưng họ lại nói xấu người khác. Họ muốn trở nên khôn ngoan, nhưng họ lại tham gia vào những hành động dại dột mà không tự suy xét.
Nếu các Phật tử trẻ tuổi muốn vươn cao, làm sống lại những gì tưởng chừng như vô vọng, và tỏa ra ánh sáng để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, họ cần phải giữ gìn giới luật làm nền tảng cho hành vi của mình. Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Ai muốn leo lên cao thì phải bắt đầu xuống thấp; người muốn đi xa phải bắt đầu từ gần đó. ” Nếu bạn không hành động theo các nguyên tắc của Phật giáo và không giữ gìn Năm giới, bạn sẽ không được lợi ích gì từ giáo lý nhà Phật.
Bạn có thể đến thăm các nhà tù và tự mình quan sát. Bạn sẽ thấy rằng những tù nhân bị giam giữ đã mất tự do – vì họ đã vi phạm một hoặc nhiều Năm Giới luật. Ví dụ, giết người và hành hung là vi phạm giới luật kiêng sát sinh. Hối lộ, trộm cắp và ăn cướp là những vi phạm của giới cấm ăn cắp. Những ai phá vỡ sự hòa thuận của gia đình người khác, phá hoại đạo đức công cộng, chế độ đa thê và tấn công tình dục đã vi phạm giới cấm tà dâm. Những người không trung thực, không giữ lời đã vi phạm giới cấm ăn nói không đúng mực. Ngoài ra, việc hút thuốc phiện và cần sa, hít keo, tiêm chích trái phép chất ma tuý và sử dụng chất say đều là vi phạm giới cấm sử dụng chất say.
Từ những ví dụ này, có thể thấy rằng các tù nhân đã mất tự do vì hành vi sai trái của chính họ. Xã hội của chúng ta không dung thứ cho những người coi thường Năm giới và vi phạm quyền của người khác. Giới trẻ Phật giáo ngày nay nên nhiệt tình và sôi nổi; quan trọng hơn, họ nên tuân theo các quy tắc của cuộc sống và tuân thủ chặt chẽ các giới luật.
Một số người nói rằng với rất nhiều thanh niên Phật tử sôi nổi, họ nên tổ chức một ca đoàn Phật giáo để làm cho cuộc sống thêm tươi đẹp và thêm chút sinh động cho Phật giáo. Việc phổ biến âm nhạc và tụng kinh Phật giáo nên được khuyến khích. Người ta cho rằng đi du lịch có thể mở rộng tầm nhìn của bạn và thúc đẩy sự thư giãn. Thật vậy, nhiều cuộc hành hương Phật giáo đã được tổ chức. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất, Phật giáo cũng yêu cầu các bạn trẻ Phật tử nhìn sâu hơn vào kinh điển và nghi lễ, tuân theo giới luật và giáo pháp, sử dụng những gì Đức Phật đã dạy làm nền tảng cho đức tin của mình. Nếu giới trẻ Phật giáo muốn đánh thức con người thời đại chúng ta và mang đến một luồng gió mới cho đạo Phật, trước hết họ phải khiêm tốn và chuẩn bị trước bản thân. Họ phải học tập chuyên cần và rộng rãi để có thể hướng dẫn người khác hướng về chánh kiến. Họ chỉ có thể làm việc tốt cho xã hội khi họ quen thuộc với các kỹ năng và công nghệ khác nhau. Họ chỉ có thể giác ngộ và giúp người khác giác ngộ nếu họ hoàn toàn rõ ràng về ý nghĩa của Tứ Diệu Đế, Mười Hai Liên Kết Duyên Khởi, Sáu Ba La Mật và các phương pháp thực hành khác.
Thu hút và chuyển đổi tất cả chúng sinh bằng cách mang lại lợi ích họ và hạnh phúc cho họ
Đối với thanh niên Phật tử, chỉ tuân thủ giới luật, hiểu biết Phật pháp, thanh tịnh bản thân thôi thì chưa đủ. Tinh thần của đạo Phật không chỉ là giải thoát cho chính mình mà còn là giải thoát cho người khác. Người Phật tử không chỉ làm lợi cho mình mà còn phải làm lợi cho người khác. Họ phải thu hút và chuyển đổi tất cả chúng sinh bằng cách mang lại lợi ích cho họ và cung cấp cho họ sự hạnh phúc. Nếu họ không thể có giá trị đối với người khác thì sự tồn tại của họ trên thế giới này là vô nghĩa.
Kể từ khi tôi bắt đầu hoằng dương Phật pháp, tôi đã tuân theo những lời dạy của Sư phụ Taixu. Tôi nhấn mạnh đến việc giảng dạy theo tinh thần nguyên thủy của Đạo Phật và đặc biệt chú trọng đến việc hoằng dương đạo Phật nhân bản và sống đạo. Đạo Phật không phải là một tôn giáo của những lời nói suông. Búp bê phải bắt đầu bằng cách chứng minh cuộc sống của mọi người. Họ không nên đặt mục tiêu quá cao và quá tìm hiểu về các nguyên tắc cơ bản nhưng họ phải thực tế. Họ không nên nghĩ rằng chỉ cần nói về sự thật là đủ; họ nên cố gắng mang lại lợi ích cho người khác và mang lại cho họ sự bình yên và hạnh phúc.
Làm thế nào để người Phật tử có thể mang lại lợi ích cho người khác? Làm thế nào họ có thể mang lại hòa bình và hạnh phúc cho người khác? Việc thành lập các trẻ mồ côi, viện dưỡng lão, trường học, bệnh viện, viện Phật giáo, thư viện, trung tâm văn hóa, tiệc mừng, trường học chủ nhật, lớp học ngoại ngữ, và tất cả các loại hoạt động xã hội như thực hiện các dịch vụ đám cưới và tang lễ đều có lợi cho người khác. Trong tương lai, ngoài việc xây dựng tự viện và thực hiện các hoạt động Phật pháp, các Phật tử cũng sẽ thực hiện theo những gì Đức Phật đã dạy trong việc mang lại một nếp sống mới cho con người. Đây là trách nhiệm của họ. Giới trẻ Phật giáo ngày nay nên có cảm hứng và khả năng chịu đựng để làm việc vì lợi ích của tất cả chúng sinh và mang lại niềm vui cho họ. Tải nặng, đường dài ngoằn ngoèo. Nếu chúng ta không chịu trách nhiệm, ai sẽ?
Đảm bảo an toàn cho bản thân trong sự tập trung thiền định và sự khôn ngoan
Trong thế giới hỗn loạn ngày nay, nhiều người thường cảm thấy hoang man và lo lắng. Vấn đề khó chịu nhất là không biết phải giải quyết cơ thể và tâm trí của một người ở đâu. Ví dụ, một số người làm công việc mà họ không yêu thích, nhưng họ cảm thấy chán nếu họ không làm việc. Họ không thể xem tivi cả ngày. Cờ bạc, chơi bời, ăn uống và lang thang mọi lúc cũng có thể dẫn đến cảm giác trống rỗng và tuyệt vọng. Giải quyết cơ thể và tâm trí là điều quan trọng hàng đầu. Trong Phật giáo, việc lặp lại danh hiệu của Đức Phật có thể làm thoải mái thân tâm. Thiền dưỡng sinh cũng là một phương pháp hay được sử dụng để thư giãn cơ thể và tâm trí. Câu trước giúp chúng ta tập trung tâm trí vào danh hiệu của Đức Phật, trong khi câu thứ hai giúp chúng ta sử dụng trí tuệ chân chính để an trú trong trạng thái thanh tịnh.
Tất nhiên, trước khi có thể đạt được sự tập trung thiền định, người ta phải trải qua một giai đoạn huấn luyện cơ bản. Nó không khác gì phải học bơi trước khi trở thành một nhân viên cứu hộ. Sau khi cơ thể và tâm trí được trải nghiệm trong thiền định, niềm vui vô bờ bến của tu tập siêng năng sẽ được trải nghiệm. Người ta sẽ có thể thực hành không chỉ khi ngồi, mà còn trong khi ăn, làm việc hoặc khi ngủ. “Trăng ngoài cửa sổ cũng như thường, chính hoa mận mới tạo nên sự khác biệt,” là một câu nói của người Trung Quốc. Khi các Phật tử trẻ hiểu biết về thiền, thì bất kể đi, đứng, ngồi, ngả, học hay hành, họ đều có thể cảm nhận được vẻ đẹp của cuộc sống và an lạc với chính mình.
Sau khi tu thiền định, điều cần thiết là phải trở nên an lạc hơn nhờ trí tuệ. Ví dụ, nếu một người quyết định đọc một chương sách mỗi ngày, thì có thể đọc 365 chương trong một năm; đó sẽ là 3.650 chương trong mười năm! Kết quả tích lũy quả thực là đáng kinh ngạc. Sau khi có được trí tuệ, thế giới và cuộc sống sẽ được nhìn nhận khác hơn trước. Chúng ta sẽ bắt đầu hiểu tại sao Đức Phật nói rằng tất cả các sinh vật sống đều có Phật tính. Nếu chúng ta nhìn thế giới này bằng “con mắt khôn ngoan” của mình, chúng ta có thể nhìn thấy ánh sáng của sự thật. Nhưng trí tuệ mà chúng ta nói đến trong Phật giáo khác với trí tuệ thông thái. Rốt cuộc, trí tuệ thế gian chủ yếu quan tâm đến sự phân biệt và phân biệt của ý thức chúng ta, trong khi trí tuệ của Phật giáo nhằm mục đích bộc lộ bản chất ban đầu của chúng ta và giúp chúng ta loại bỏ tất cả các tạp chất.
Đạo Phật giống như một ngọn núi cao. Khi lên cao, chúng ta có thể nhìn thấu mọi hiện tượng của thế gian. Đạo Phật cũng giống như một đại dương. Nếu chúng ta hiểu được nó, thì trí tuệ của chúng ta là rộng lớn và vô biên. Mỗi người trong chúng ta đều có thể thanh lọc và củng cố bản thân thông qua giới luật và Giáo pháp, giúp đỡ và giải thoát mọi chúng sinh một cách thiết thực thông qua việc cung cấp lợi ích và hạnh phúc cho người khác, và vượt lên chính mình nhờ sự định tâm thiền định và trí tuệ. Như câu nói của người Trung Quốc nhắc nhở chúng ta, “Để mở rộng tầm nhìn và nhìn thấy xa ngàn dặm, hãy lên cao hơn một chút!”
Looking Ahead: A Guide for Young Buddhists
Venerable Master Hsing Yun
“Looking Ahead: A Guide for Young Bud-dhists” is a very broad topic and will be divided into two parts: (I) what young people can expect from Buddhism and (II) what Buddhism ex- pects from young people.
I. What Young People Can Expect from Buddhism
Young people who dedicate themselves to Buddhism earnestly hope that the future of Buddhism will be bright. When the fu- ture of Buddhism radiates with promise, young Buddhists will feel that life is full of hope and meaning, and they will have a true sense of peace. In our world, where changes can happen in the blink of an eye, where the life of an individual pulsates in the mighty torrent of the universe, the first thing we want to ur- gently examine is the question concerning future development, which will be examined from the following perspectives:
a. Changes and developments in the world.
b. The evolution and changes in history.
c. Changes and developments in society.
d. Changes and developments in religion.
e. Changes and developments in everyday living.
f. Changes and developments within Buddhism itself.
a. Changes and developments in the world
The world in which we are living now is called the “saha world,” which means the world of suf-fering (duhkha, the Sanskrit term for suffering). It can obscure the pure Buddha nature within us, thus it is called a “cover” or “hindrance”; it twines and twists in our hearts like a heavy rope, thus it is called a “knot”; it drives us into the thick of ignorance (avidya) as we are caught in the wheel of transmigration (samsara), thus it is called “pur-suer”; it confuses us and makes us lose sight of our true nature, thus it is called “delusion.”
In addition to the above, terms such as “fire,” “poisonous arrow,” “tiger and wolf,” and “trap” have been used as metaphors for suffering. What kinds of suffering do we have in this saha world? We suffer when our wishes are not fulfilled. We suffer because of discord in our personal relationships involving love, hate, separation, and togetherness. We suffer because of natural dis-asters caused by wind, rain, fire, and earthquakes. We suf- fer physically because of sickness, aging, and death; we suffer psychologically because of greed, anger, and delusions. This suffering is boundless, immeasurable, and endless. Even though we live in such a saha world, we are not completely without happiness but it is fleeting compared to the suffering we must endure. When newborn babies are delivered, their first sound is a cry, as though they already know that life is full of suffering.
Buddhism is not a religion that requires people to be like withered logs or cold ashes. It does not ask us to sit precari- ously on the edges of our seats talking seriously all the time about the various kinds of suffering in this world. Buddhism is an uplifting religion that promotes supreme peace and joy for everyone. If Buddhism is an uplifting religion, why is there such an emphasis on the suffering in life? It is because if we do not know suffering, we will not understand happiness. Without suffering, there is no impetus for us to take the initiative to learn about Buddhism. Suffering is what motivates us to cultivate the Buddhist path.
This saha world can gradually develop into a heavenly world. In Buddhism, heaven refers to the twenty-eight heavens contained within the Three Realms. These are the six heavens of the Realm of Desire (Kama-dhatu), the eighteen heavens contained within the Realm of Form (Rupa-dhatu), and the four heavens contained within the Formless Realm (Arupadhatu).
Celestial beings lead markedly different lives than beings in the saha world, and their life spans are very long. The life span of celestial beings in the Caturmaharajika heaven may be used as an example. Among all the heavens, the heaven of Caturmaharajika the closest to our saha world. One day and one night in this world are equivalent to fifty human years. The life span of beings in this world is five hundred celestial years, which is equivalent to nine million human years. In other words, if we can be reborn into the Caturmaharajika, heaven
one level above our saha world, we can live to nine million hu- man years. We will not find that “life rarely reaches seventy,” nor find the eight-hundred-year life of Peng Zu such a rarity. If we can be reborn in the heavens of the Formless Realm, then our life span will be eighty thousand major kalpas long. This is such an incredibly long time that it is beyond our imagination and cannot be described in words.
Besides longevity, the blissful life in this heaven is very remarkable. For example, when these celestial beings need to clothe themselves, clothing will appear at once and if they want to eat, food will appear immediately. All wishes and desires are satisfied. Moreover, their physique, abode, and the serenity they attain through meditation are also remarkable. Considering the conditions of our present world, many of us are approaching the standards of this heavenly life. We have air conditioning during hot summers and central heating during cold winters. If we find the speed of automobiles and trains too slow when we travel to far-off places, airplanes transport us with fantastic speed. We have all kinds of delicious food and delicacies to satisfy our appetites. Radio broadcasts in the United States can be heard simultaneously in Taiwan. When we turn on the television, ball games or boxing matches magically appear in our homes. We really can have many of our wishes and wants fulfilled. Thus, materially, this world of ours is gradually developing into a heavenly wonderland.
Although the conditions in this saha world can change from suffering to happiness and the happiness of heaven is boundless, such happiness is not ultimate happiness. After all, even a life of nine million years or eighty thousand kalpas is only a limited life span. As our saha world continues to develop, if people start believing in the Buddha and reciting the Buddha’s name, then this world can gradually become the World of Ultimate Bliss. Unlike the heavenly worlds, the World of Ultimate Bliss is a land of purity, where sensual desires are not required for the continuation of life. It is a vast and wonderful place where ag- ing, change, decay, and destruction do not exist.
The ground of this Pure Land is covered with seven kinds of precious natural stones. It is a world free of the perils of tall mountains, oceans, seas, rivers, canyons, and the like. The weather there is perfect all the time. There are no seasons such as spring, summer, autumn, and winter. Houses are made of seven kinds of precious stones. The water there has eight won- derful qualities and is sweet like nectar. Many kinds of precious lotus flowers are everywhere.
When one steps on the carpet of flowers, a four-inch deep indentation is made but the carpet quickly springs back after each step. Since people who live in this Pure Land are reborn from lotus flowers, there is no gender difference. They do not have any financial worries. No one hoards any food because food is everywhere and when they eat, they immediately feel full and contented. This wonderful Pure Land has many types of delightful musical instruments playing the sounds of the Dharma. It also has hundreds of thousands of different kinds of shining lights, making it a magnificent and brilliant place.
It can be seen that this World of Ultimate Bliss is much more supreme and wondrous than heaven. Why are more and more people in Taiwan reciting the Buddha’s name? Because they want to change this human world into a pure land. “When one’s mind is pure, the land will be pure” is a Buddhist saying. This idea must not be considered as mere imagination or a fairy tale. According to the sutra, this blissful land is ten thou- sand million Buddha realms away from us; one Buddha realm is trichiliocosms. This means that the distance between our saha world and the blissful Pure Land is ten thousand million Buddha realms. This astronomical figure can frighten people.
However, the sutras also tell us that when we leave our hu- man world, we can be reborn into this World of Ultimate Bliss in a moment of thought. Today, it still takes American astronauts several days to land on the moon, which is over two hundred thousand miles from Earth. Nevertheless, it just takes us a moment of thought to arrive in the Pure Land, which is ten thousand million Buddha realms away. That is because the Pure Land is not a scientific or material world: it is a world of faith. When more people begin to recite the name of the Buddha, our world will gradually become a pure land.
As the Pure Land of our world continues to evolve, it will eventually develop into the “Lotus World” (the Pure Land of Vairocana). In this Lotus World, trichiliocosms can be contained within a tiny speck of dust. You may recall the sutra’s de-scription of Indra’s famous net. As the radiance of the pearls on the net reflect each other, the whole universe is seen in them. The radiance shines through heaven and earth. Time and space merge together. There is no distinction between mind and matter.
The Buddha realms from the ten directions and all the specks of dust in the universe all revolve around each other in mutual interdependence. In such a world of infinity where everything is perfectly interconnected, everything is being spread across the three dimensions and the ten directions. There is neither inside nor outside, neither past nor present, no shortages or deficiencies of any sort. Such a world tran- scends the perspective of time and space and eliminates the boundary of emptiness versus existence. The concept of pos- session and non-possession has been eliminated. If the ideal of the Lotus-World were fulfilled, we could dwell in such a world without worry whether we were rich or poor; we would feel happy and contented. Not only would gourmet food taste exquisite but simple meals would also be equally appealing. Similarly, both praises and insults would sound like pleasant melodies.
In the Lotus World, regardless of whether it is a blade of grass or a tree, a person or an object, there is no difference between one and many or between pure and impure. If Buddhism is diligently practiced, the stage of perfect equa-nimity will not be difficult to reach. Today, many people believe that the end of the world is coming soon. This trend of thought is even popular among many intellectuals. This is an overly pessimistic and irresponsible type of mentality. If Buddhists vow to be compassionate and to put Buddhism into practice, then our world will not only become a heaven, it will also turn into a pure land. The Lotus World may even materialize right here in this world of ours.
b. Evolution and changes in history
The prehistoric time is called the era of divine power. During this time, the intellect of the people was not yet very well- developed. They led simple lives, ate raw meat, and lived in caves. They were overwhelmed by a variety of natural forces, espe-cially destructive phenomena like wind, flood, rain, and fire. When faced with these seemingly inescapable and incom- prehensible external forces, they were filled with terror. They imagined that some kind or many kinds of forceful and invis- ible things were controlling their fate and punishing the human race. They sought forgiveness through various rites of sacrifice and worship.
This brought about the era of divine power, in which many gods were worshipped. In the eyes of primitive people, when thunder roared and lightning flashed across the sky, the god of thunder was angry. When strong gusts blew, the god of wind was showing off his power. Pouring rain and flooding were warn- ings from the god of rain. Moreover, the sun, moon, mountains, rivers, streams, seas, stars, clouds, smoke, and the like were all manifestations of their respective gods. Rocks and earth could also be called gods. Primitive people believed that anything that was unknown to them must be divine. The creation of every- thing, including the formation of the universe, was done by the will of the gods who were supreme.
Today in Taiwan, even a big tree can be considered a god. This shows that this kind of “divine power” idea is not limited to primitive people.
Later on, the era of divine power slowly evolved into the era of monarchical power. As the mode of life gradually changed from familial to tribal living, a person who was more intelligent and more capable would rise above the rest of the people to unite all the tribes and thus become a leader. The leader was the most powerful man in his land. With his absolute power, “when the leader ordered the death of his officers, his officers had to oblige.” Surprisingly, this era continued for several thousand years.
Gradually, people began to realize that there was some- thing wrong with monarchical power. They began to revolt and promote people power. As time changed everyone was able to enjoy certain rights. The barrier between the ruler and the ruled was broken. People began to manage their own affairs. For example, in the Republic of China, the Three Principles of the People: Nationalism, Democracy, and Social Well-being are practiced. The people, through elections, select the capable and virtuous as public servants. Freedom of choice is respected because everything is determined in accordance with the rights of the people.
The modern era of people power gives people many free- doms and rights, and protects their welfare. Is this the ultimate? Is it possible that this is the extent of people’s ideals?
Many of today’s intellects believe that the era of people power will gradually evolve into the era of “life power.” Life includes all kinds of living beings. In the future, all living beings will have an equal right to existence. This will include human beings of diverse family backgrounds, physical appearances, character, and intelligence as well as people who are rich, poor, strong, weak, wise or foolish.
The right of existence will even extend to all kinds of ani- mals, reptiles, and insects. Today, more and more civilized countries are already establishing laws to protect animals, and many nations have created wildlife protection areas. Taiwan has an animal protection day. Many people protest against cruelty to animals because all animals are living creatures. From the material point of view, we are all made of bones, flesh, and skin. If we send animal hair, skin, bones, and flesh to the laboratory and have them analyzed, we will find out that they are all made up of carbon, hydrogen, oxygen, nitrogen, calcium, iron, and other chemical elements. Although the feelings, thoughts, behaviors, and knowledge of all animals are not as developed as that of human beings, their perception of pain and happiness is obvious. The same drive for survival and dread of death is exhibited in all animals, from higher animals, such as human beings, to lower ones such as ants and insects, We all wish to escape pain and seek happiness. As the era of people power continues to evolve, we will no doubt enter into an era of “life power,” an era promoted by the Buddha when he said, “All liv- ing beings have Buddha nature.”
c. Changes and developments in society
The first type of society formed in early civilization was the nomadic society. In order to sustain their lives, nomadic peoples moved from place to place where they could find water and grass for their herds. Gradually, they settled down and devel- oped into an agricultural society. Through their knowledge of farming, they lived on the plants and food they grew.
After the industrial revolution, the structure of society changed rapidly. All existing perspectives and values were challenged. In an industrial society, people continuously look externally in their pursuit of material knowledge. The material world is the object of inspection, research, experimentation, and utilization. This materialistic outlook not only colors our knowledge of the material world but also corrupts our knowl- edge of the spiritual realm.
Confusion in knowledge leads to corruption in morals. The industrial era allowed people to lead materially comfortable lives but it also gave them a strong desire for material goods. Furthermore, the confusion is exacerbated because the boundary of self versus others is not erased and the relationship between the mind and the material world is not harmonious. Not only will advancements in technology and improvements in material avail- ability fail to bring about freedom and equality between people and in the way they interact with the material world, materialism will create conflict, pitting people against people and people against the material world. For example, on one hand, the invention of the nuclear bomb has had the effect of preventing military invasions; on the other hand, it has created distrust among all the highly developed countries in the world. The industrial de- velopment of society has only enriched the material aspects of life. The growth of our spiritual life and the raising of our moral standards must wait for the arrival of “the ethical society.”
Our society is gradually becoming more pros-perous as evi- denced by increasing numbers of skyscrapers and an abundance of leisure time and recreational activities. However, people’s minds are becoming more corrupt and deluded. The development of society is in direct proportion to the number of people thirsting for a balanced inner life. Material life cannot provide us with permanent peace; only Truth itself is forever. The United States is a highly developed country, but its people need religious belief more than ever before. They desperately need spiritual cultivation in their daily lives. Some even feel that Catholic and Protestant services and prayers are not enough. For example, at the 1977 ordination at Fo Guang Shan a doctor of psychology, a master of linguistics, and two professors jour- neyed thousands of miles from America to come to Taiwan to be ordained as Buddhist monks and nuns.
Recently, many Tibetan, Japanese, and Chi-nese (Taiwanese) monks and nuns have gone to Europe and America to teach the Dharma. There, Buddhism is taking root at a very rapid pace. In some places Buddhism is still in the very early stages of development, but in other places, it has already in- spired an enthusiastic response. In America alone, at many universities there are organized Buddhist study groups, meditation classes, talks, and discussions on Buddhism. Harvard University has a Buddhist Studies Program. In Britain, the students of Oxford, Cambridge, and London Universities have organized very active Buddhist clubs. Along with the technological development of society, people will gradually recognize religious or spiritual cultivation as a necessity of life. Thus, from a sociological point of view, the future of Buddhism is bright and full of hope.
d. Changes and developments in religion
Religion is as old as human existence. In earlier times, people believed in the “religion of nature.” Primitive people did not understand natural changes, therefore they worshipped all natural phenomena as gods. They worshipped the moon, the sun, the rain, the thunder, the sky, and the earth. We could even say that there was really no aspect of nature they did not worship or believe to be a god. The nature religions slowly evolved to become the religions of deities and spirits. Supernatural events were believed to be the manifestation of deities and spirits. Village legends would proclaim that so-and-so had become immortal, or so-and-so had become a god worthy of worship.
Later on, the religion of deities and spirits gradually evolved into a religion of hero-worship. A person who had performed great feats among the people would be chosen as an object of worship. People adored him, considered him a hero and worshipped him as a god. Today, the religion of hero-worship is very popular in Taiwan. Nevertheless, it is my belief that this will gradually develop into the “religion of truth.”
As the quality of education improves, people’s intellects also grow. There is more of a need for people to believe in a religion that corresponds to the truth. The religion of truth does not talk about “god power,” which makes people lose their senses and abilities for self-realization. The religion of truth is not based on blind faith due to a fear of nature, nor is it a religion that only worships people for certain heroic acts. A religion of truth must face all the problems of our universe and our lives. It should be able to resolve people’s inner conflicts and develop their char- acters. It should allow people to attain the state of nirvana, the state without the pain of birth and death. Buddhism is a spiritual path that meets the requirements of such a religion of truth.
Buddhism is a belief system based on wisdom. It is not based on superstition. All living beings have Buddha nature, and all have the potential of becoming a Buddha. Buddha na- ture contains everything; it is fundamentally pure. It was not born and it will not die. All things and phenomena are formed due to the combination of all the right causes and conditions (hetupratyaya). They have no-self as all are manifestations of the mind changed by consciousness. The purpose of following Buddhist teachings is to attain supreme enlightenment, wisdom developed to the highest level and life evolved to the perfect state. These are all reasons to be full of confidence in the future development of Buddhism.
e. Changes and developments in everyday living
Within Buddhism, the earliest Buddhist lifestyle was that of mendicancy. Every day, monks would go out to beg for alms. In the early days of Buddhism, the Buddha and his followers all begged for alms to meet their basic needs. They ate only once a day. After begging for alms, they would sit down under trees to cultivate their practice.
When Buddhism spread east to China, the differences in the structure of society and lifestyle were such that begging for alms was no longer suitable. Thus, “farming Chan” gradually became a way of life for the monks. “Farming Chan” made the monks or nuns self-reliant since they farmed and practiced at the same time. Chan Master Baizhang Huaihai was famous for his statement that, “A day without work is a day without food.” Master Taixu suggested that the monks do “working Chan.” He believed that since farming did not hamper Chan practice, the physical labor of working could coexist with Chan practice. Therefore, both farming Chan and working Chan gradually de- veloped into a life of communal cultivation.
In a life of communal cultivation, a person who renounces secular life to lead a life of practice does not necessarily have to live in the forest to meditate, or farm in order to eat. One can join a community by living in a monastery where all are equal, all help each other, and all advance in their spiritual cultivation through their harmonious communal efforts. In the past, this kind of communal cultivation took place only in the monaster- ies. Now many other settings also offer this kind of communal cultivation to lay Buddhist practitioners, such as Buddhist recitation groups and other lay Buddhist groups. As this communal cultivation continues to develop, what will it lead to? It will lead to a life of liberation. If we en-courage each other, study and discuss with each other, and motivate each other to delve deeply into Buddhism, we can truly live in liberation.
To lead a life of liberation means to truly understand and sincerely appreciate that all phenomena are impermanent (anitya) and empty of a separate intrinsic nature. It also means to have the ability to free oneself from the shackles of life’s suffering, thereby attain the peace, happiness, and liberation of both mind and body. From the realization of no-self, one can naturally give up the desire to possess. From the understand- ing that all phenomena arise out of conditioned genesis and are empty in nature, one will be free from any dependencies and be able to transcend the deluded state of grasping and clinging. When we live with such realization and understanding, then it does not matter whether we are wealthy or not. Of course, financial wealth can give us much convenience, but we can be equally at ease without it. The richness found within oneself is much more important than the possession of wealth. Being in a high position is certainly glorious, but being in a humble position or just being an average citizen is also acceptable and will not damage our self-respect in the very least. After all, we know that the Buddha nature within us is equal to all Buddhas.
Being healthy all the time is certainly fortunate, but being sick to the point of debilitation or death is not necessarily dread- ful. In the eyes of one who is liberated, birth, aging, sickness, and death are like water bubbles. Even when bubbles burst, the nature of the water is still quiet and peaceful. Although our physical body still undergoes birth, aging, sickness, and death, these are only phenomenal changes; there is no birth, aging, sickness or death in our true Buddha nature. If we can understand that “death” is only the death of the physical body, the death of phenomena, we can then realize that our Buddha nature does not have the differentiation of birth and death. For example gold can be molded into earrings, bracelets, and rings, but these things are not gold itself. The nature of gold does not change.
If, through cultivation, one’s true Buddha nature is realized, living or dying, having or having not, coming or going, will not matter because there is no difference between birth and death. It will become obvious that possession and non-possession are the same; coming and going are one. Then a completely free and liberated life may be lived. Today, as people’s wisdom begins to blossom, they will soon realize the importance of Buddhist cultivation and will soon live liberated lives. As communal cul- tivation continues to develop, more and more people will be able to live free, happy, and liberated lives.
f. Changes and developments within Buddhism itself
The Buddha appeared in this saha world for one main purpose, to establish Buddhism as a guide for all sentient beings, enabling them to awaken and enter the way of Buddhahood. Thus, Buddhism is based on human well-being and is often referred to as “human-vehicle Buddhism.” After the enlightenment of the Buddha approximately 2,500 years ago, Theravada Buddhism became popular in India. During the reign of King Asoka, Buddhism spread south to Sri Lanka, Myanmar, Thailand, and Indonesia, where Theravada Buddhism is still practiced while Mahayana (Great Vehicle) Buddhism is now mainly practiced in China, Japan, Korea, and Tibet.
When Buddhism was introduced into China during the Han Dynasty, Mahayana Buddhism prevailed. However, while Mahayana doctrines were being taught at that time, the actual spirit and strength of Mahayana was lacking. Later on, many eminent monks came forward to preach Mahayana Buddhism and the doctrines of the Mahayana School began to flourish in China. In Mainland China, there are four very famous sacred practice sites: Mt. Putuo is that of Avalokitesvara Bodhisattva; Mt. Jiuhua is that of Ksitigarbha Bodhisattva; Mt. Emei is that of Samantabhadra Bodhisattva; and Mt. Wutai is that of Manjusri Bodhisattva. These four Bodhisattvas are Mahayana bodhisattvas. Bodhisattva ideals emphasize Buddhist practice for laypeople. In fact, Avalokitesvara Bodhisattva, Manjusri Bodhisattva, and Samantabhadra Bodhisattva all appear as lay practitioners—only Ksitigarbha Bodhisattva appears as a monk. Thus, Mahayana Buddhism is the Buddhism that should be practiced by lay Buddhists.
The objectives of the practice of Buddhism are to clear the mind to see our Buddha nature, to know the truth about the uni- verse and life, to be freed from the bondage of birth, death, and affliction, and to attain ultimate freedom and equanimity. We want to attain all these goals for ourselves as well as for all humans and animals. Unenlightened people are ignorant about the truth of the universe and life. They are attached to desires and clinging and therefore revolve in the cycle of birth and death. People who practice Buddhism only for their own liberation view the three realms as prisons and people as their enemies. Once they renounce the world to become monks or nuns, they do not think of reentering it again.
On the other hand, bodhisattvas who have the spirit of the Great Vehicle realize that both the ego and all phenomena are non-existent. They cultivate great wisdom without being at- tached to life and death. They cultivate great compassion with- out being attached to nirvana. With both wisdom and compassion, they reach for the supreme way of the Buddhas and, at the same time, liberate all sentient beings. The wisdom and compassion of bodhisattvas is most supreme. It is through helping others that the nature of wisdom and compassion is realized and the state of wholeness is actualized. Wisdom without compassion is only arrogance and compassion without wisdom is merely mundane emotion. The spirit of the bodhisattva looks upon all beings sympathetically and treats them as parts of him- self. This spirit allows wise people to become knowledgeable, kind people to have love, the brave to do good deeds, and all sentient beings to rely on each other and exist harmoniously.
In the past, Buddhism in Mainland China was presided over by the sangha, while the devotees played a supportive role. A standard Theravada practice for monastics is the willing renunciation of secular life and the relinquishment of desires and at- tachments; this is the mindset on leaving the secular world. If all devotees sincerely engaged in bringing Buddhism into their daily activities, using the spirit of the four great Bodhisattvas to spread Mahayana Buddhism, Chinese Buddhism would not be in the condition that it is in today. Today in Taiwan, there are many university students and young people who are well-educated and have high ideals. Not only do they embrace Buddhism, they also want to put compassion into practice by devoting themselves to Buddhism. If more young people join us in this compassion movement, and tirelessly use wisdom and compassion to influence others, the future world will become a world of “Buddha Vehicle Buddhism.”
Some people have said that if Chinese Buddhism were to decline, Buddhism would then be reintroduced from the West. This suggestion might not be correct, for we have begun to see a new Buddhist revival slowly happening. Buddhism is begin- ning to take root again in our society. This is the era when we all learn to conduct our affairs with the mind of the Buddha, to deliver to the multitudes the spirit of the Buddha, and to set our moral standards based on the example of the Buddha.
Young people must have faith and hope for the future of Buddhism. When you devote yourselves to such a religion of truth, and toil over your cultivation, you may be reassured that all your hopes will be realized in the future. The world in the future can be a Lotus World as de-scribed by the Buddha. Society in the future can be a society that places equal emphasis on both work and cultivation. The Buddhism of the future will be a religion that disseminates truth throughout the world, nurturing the human race and making life in the future enlightened and liberated. The world in the future, the world of “Buddha Vehicle,” will be the most ideal and harmonious world.
II. What Buddhism Expects from Young People
The first section dealt with what young people can expect from Buddhism. This section will deal with what Buddhism expects from young people. Buddhism was originally a religion for the young but somehow came to be mistaken as a religion belonging to the elderly. For example, some people will use “Wait till I am old” as an excuse for not learning Buddhism now. They seem to think that Buddhism is a religion that only belongs to the elderly and that one cannot become a Buddhist unless all one’s hair has turned gray and all one’s teeth have begun to decay. Because sutras are chanted for the benefit of the dead, some people believe that Buddhism is a religion for the dead. All these are misunderstandings. In Buddhist paintings it can be seen that Sakyamuni Buddha, Avalokitesvara Bodhisattva, Manjusri Bodhisattva, Samantabhadra Bodhisattva, and Ksitigarbha Bo- dhisattva are portrayed as young people. Buddhism is also a religion for the young.
Sakyamuni Buddha was thirty-five when he was enlightened which, according to our standard, is a very young age. Master Xuanzang, one of the greatest men in the history of China, was only twenty-six when he decided to go to India to bring many Buddhist scriptures back to China. With his youthful, compassionate aspiration, and bravery, he enriched Chinese Buddhism and left countless cultural treasures for later generations. In the voluminous Buddhist scriptures and history, the glorious deeds of many young Buddhists have been recorded. Sumati is one such example. Although Sumati was just a young girl, Manjusri, a person of high virtue and prestige, had to bow to her. Also, as stated in the Lotus Sutra, the Dragon Maiden was only eight when she attained Buddhahood in the Immaculate World of the south. Thus age does not make any difference.
Buddhism does not look down upon young people, nor does it discriminate against women.
In the fourth century, there was a very well-respected monk named Sengzhao. He was one of the four great disciples of Kumarajiva. Although he passed away at the tender age of thirty-one, he left behind many great works. In particular, the treatise that was named after him has left an indelible print on Buddhist and Chinese cultures. During the course of history, Buddhism has nurtured and molded many young people who in return have devoted themselves to its progress and prosperity. Sudhana was the most famous character in the Avatamsaka Sutra. He was a humble little boy who called on fifty-three wise sages and bodhisattvas in order to seek the right way and to discuss the state of mind of all the Buddhas and bodhisattvas. He was received respectfully everywhere he went. From this, it can be seen that Buddhism is certainly not just a religion for the elderly; it is also a religion for the young.
The fact that the preaching methods used in some temples may be ill-suited for the public cannot be denied. In encourag- ing lay devotees to develop their minds, cultivation practices in the home should be emphasized. But some Dharma masters, be- cause they themselves have renounced, tend to expect their lay believers to become vegetarians, renounce, and observe the precepts of monks and nuns. This has created a com-munication gap between the masters and the lay believers. In addition, the unrest in society in recent years has also been detrimental to Buddhism. Consequently, since the end of the Ming Dynasty, the prog- ress of Buddhism has been impeded. The disturbance caused by the Taiping Rebellion during the Qing Dynasty had devas- tating effects on Buddhism. The recent blows Buddhism has encountered in Mainland China is a major set back. Buddhism is still going through difficult times there. After such turmoil, it is no wonder that much of the work of Buddhism has not been carried out according to the original ideals. With manpower and talent also falling short of the heydays of Buddhism during the Tang and Song Dynasties, Chinese Buddhism is in the midst of an unprecedented crisis. Living in such an era, young Buddhists should work to glorify the real Buddhist spirit and restore the ideals of Buddhism. Buddhism has to be firmly established as a religion for the young. To make this a reality, it becomes necessary to discuss what Buddhism expects from young people and what young people must do to become pillars of Buddhism.
Purify yourselves with precepts and the Dharma
If young Buddhists want to liberate others as well as them- selves and become the backbone of Buddhism, they must be compassionate and ready to strive for the ideals of life. They must develop self-awareness and have willpower. The founda- tion of these attributes comes from self-purification through the Buddhist precepts and the Dharma. If you do not purify yourselves, how can you purify society and other people? Thus, the priority for young Buddhists who want to better themselves is to uphold the precepts and to practice the Dharma.
Collectively speaking, there are certainly many precepts. Ordained monastics uphold their respective precepts while lay devotees uphold precepts for those living household lives. Among the precepts for lay devotees are: the Five Precepts, the Eight Precepts, and the Bodhisattva Precepts. All of us should at least observe the following Five Precepts, which are the basis for most of the other precepts.
- Abstain from
- Abstain from
- Abstain from sexual
- Abstain from incorrect
- Abstain from taking
To have a harmonious and happy society, everyone should uphold the Five Precepts. The basis of the Five Precepts is “do not do to others what you do not want others to do to you.” Today, many Buddhist believers want to have a long life, yet they take the lives of the innocent. They want to be rich, yet they steal and take bribes. They want to have a harmonious family, yet they upset the peace of others’ families. They want to have a good name for themselves, yet they speak falsely of others. They want to be wise, yet they engage in foolish acts without self-reflection.
If young Buddhists want to stand tall, revive what seems to be hopeless, and radiate light to benefit all sentient beings, they need to uphold the precepts as the basis of their behavior. A Chinese proverb says, “One who wishes to climb high has to start low; one who wishes to journey far away has to start from nearby.” If you do not act according to the principles of Buddhism and do not uphold the Five Precepts, you will not benefit from the Buddhist teachings at all.
You can visit the prisons and observe for yourselves. You will see that incarcerated pris-oners have lost their freedom be- cause they have violated one or more of the Five Precepts. For example, homicide and assault are violations of the precept to abstain from killing. Bribery, stealing, and robbery are viola- tions of the precept to abstain from stealing. Those who disrupt the harmony of others’ families, undermine public morality, engage in polygamy, and commit sexual assaults have violated the precept to abstain from sexual misconduct. Those who are dishonest, renege on their promises, or write bad checks have violated the precept to abstain from improper speech. Also, the smoking of opium and marijuana, the sniffing of glue, the illicit injection of narcotics and the use of intoxicants are violations of the precept to abstain from the use of intoxicants.
From these examples, it can be seen that the prisoners have lost their freedom because of their own misconduct. Our society does not tolerate people who disregard the Five Precepts and violate the rights of others. Today’s Buddhist youth should be enthusiastic and lively; more importantly, they should follow the rules of life and closely observe the precepts.
Some people say that with so many lively Buddhist youths, they should organize a Buddhist choir to make live more beautiful and inject some liveliness into Buddhism. The populariza- tion of Buddhist music and chanting should be encouraged. It has been suggested that traveling can expand your horizons and promote relaxation. Indeed, many Buddhist pilgrimages have been organized. However, most importantly, Buddhism also expects Buddhist youths to take a deeper look into the sutras and sastras, to follow the precepts and the Dharma and to use what the Buddha taught as the basis of their own faith. If Buddhist youths want to waken the people of our time and bring a breath of fresh air to Buddhism, they first have to be humble and prepare themselves. They have to study diligently and extensively in order to guide others toward the right view. They can be in a position to do good for the society only when they are familiar with various skills and technologies. They can be enlightened and help others to become enlightened only if they are perfectly clear about the meaning of the Four Noble Truths, the Twelve Links of Dependent Origination, the Six Paramitas, and the var- ious methods of practice.
Attract and convert all sentient beings by benefiting them and providing them with happiness
For Buddhist youths, just observing the precepts, understanding the Dharma, and purify-ing themselves is not enough. The spirit of Buddhism is not only to liberate oneself but to liberate others as well. Buddhists not only benefit themselves, but they also have to benefit others. They must attract and convert all sentient beings by benefiting them and providing them with hap-piness. If they cannot be of value to others, their existence in this world is meaningless.
Since I began propagating the Dharma, I have been follow- ing the teachings of Master Taixu. I emphasize the teaching of the original spirit of Buddhism and pay special attention to the propagating of humanistic and living Buddhism. Buddhism is not a religion of empty talk. Bud-dhists have to start by im- proving people’s lives. They should not aim too high and for- get about the fundamentals but they have to be realistic. They should not think that just talking about truth is enough; they should strive to benefit others and provide them with peace and happiness.
How can Buddhists benefit others? How can they bring peace and happiness to others? The establishment of orphan- ages, senior citizen homes, schools, hospitals, Buddhist mu- seums, libraries, cultural centers, celebration parties, Sunday schools, language classes, and all sorts of social activities such as performing wedding and funeral services are all beneficial to others. In the future, in addition to building monasteries and performing Dharma services, Buddhists will also follow what the Buddha taught in bringing a new lifestyle to people. This is their responsibility. Today’s Buddhist youths should have the inspiration and stamina to work for the benefit of all sentient beings and to bring joy to them. The load is heavy, and the road is long and winding. If we do not take the responsibility, who will?
Secure yourselves in meditative concentration and wisdom
In today’s chaotic world, many people often feel uncertain and anxious. The most vexing problem is not knowing where to settle one’s body and mind. For example, some people work at a job they do not like, yet they feel bored if they do not work. They cannot possibly watch television the whole day. Gambling, playing, eating, and wandering around all the time can also lead to feelings of emptiness and hopelessness. Settling the body and mind are of utmost importance. In Buddhism, repeating the name of the Buddha can ease the body and mind. Chan medi- tation is also a good method to use for relaxing the body and mind. The former helps us to focus our mind on the Buddha’s name, while the latter helps us to use true wisdom to dwell in the pure state.
Of course, before meditative concentration can be reached one must go through a stage of basic training. It is not unlike having to learn to swim before becoming a lifeguard. After the body and mind are experienced in meditation, the boundless joy of Chan will be experienced. One will be able to practice Chan not only while sitting, but also while eating meals, work- ing, or sleeping. “The moon outside the window is the same as usual, it is the plum blossoms that make the difference,” is a Chinese saying. When young Buddhists have an understanding of meditation, then regardless of whether they are walking, standing, sitting, reclining, studying or practicing, they can feel the beauty of life and be at ease with themselves.
After cultivating meditative concentration, it is necessary to become more secure through wisdom. For example, if a person decides to read a chapter of a book each day, 365 chapters could be read in a year; that would be 3,650 chapters in ten years! The cumulative result is indeed staggering. After gaining wisdom, the world and life will be looked at differently than before. We will begin to understand why the Buddha said that all living creatures have Buddha nature. If we look at this world with our “wisdom eye,” we can see the light of truth. But the wisdom we talk about in Buddhism is different from intellectual wisdom. After all, worldly wisdom is mostly concerned with the differentiation and discrimination of our consciousness, while the wisdom of Buddhism aims to reveal our original nature and to help us eliminate all dellusions.
Buddhism is like a tall mountain. When we climb up, we can see through all worldly phenomena. Buddhism is also like an ocean. If we understand it, our wisdom is vast and boundless. Every one of us can purify and strengthen ourselves through the precepts and the Dharma, universally help and liberate all living beings through providing benefits and happiness to others, and transcend ourselves through meditative concentration and wisdom. As the Chinese saying reminds us, “To broaden the line of vision and see a thousand miles away, go up a little higher!”
__________________________________
© 2006 by
Fo Guang Shan International Translation Center
3456 Glenmark Dr. Hacienda Heights, CA 91745 U.S.A
All rights reserved.
Translated by
Fo Guang Shan International Translation Center
Edited and Proofread by Venerable Miao Hsi and Louvenia Ortega
__________________________________