
Ảnh minh họa | Internet
… Ngay cả đức Phật cũng chùn bước về việc đem Phật Pháp ra giảng dạy, vì thấy căn cơ của chúng sanh trong đời mạt pháp vào cõi Ta Bà này khó có thể lãnh hội. Vậy thì tôi (chúng ta) cũng không nản lòng khi thấy trước mắt bao nhiêu cảnh đạo đức suy đồi, thế giới đang lâm nguy vì chiến tranh, thù hận. Mà trái lại, bằng hết sức mình đem Phật pháp làm phương thuốc cứu khổ cho chúng sanh, tùy theo hoàn cảnh riêng của mình mà hoàn thành tâm nguyện này. Nếu mình không làm được một vì sao trên bầu trời, thì hãy làm một ngọn nến trong nhà vậy. Mình phải thường xuyên học kinh, áp dụng kinh vào cuộc sống trước mặt…
Là Phật tử, tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải học kinh. Học kinh có nhiều hình thức, như nghe quý Thầy giảng, đọc kinh sách v..v.. và điều quan trọng nhất là phải áp dụng những bài học rút ra từ kinh điển vào cuộc sống hằng ngày. Như vậy chúng ta mới có thể có được an lạc và làm cho mọi người quanh ta an lạc.
Khi được an lạc, thì ta mới có thể dạy dỗ, hướng dẫn cho con em chúng ta sống đạo, và là tấm gương sáng cho các em noi theo; như đức Phật đã dạy :”Thân giáo” là phương pháp giáo dục hay nhất. Vì nếu ta dạy các em những điều mà chính bản thân ta chưa từng áp dụng, thì rất khó thuyết phục các em áp dụng.
Cụ thể hơn nữa, nếu ta học kinh mà không áp dụng thì làm sao có được an lạc cho chính bản thân mình, nói chi đến việc đem an lạc lại cho người khác? Ngoài ra, trong khi học kinh, trí tuệ chúng ta được mở ra và nhờ vậy, ta hiểu được nhiều điều mà có thể bài kinh không nói tới một cách trực tiếp. Xin lấy một ví dụ về hai chữ Phương Tiện, khi tôi học phẩm thứ hai của kinh Pháp Hoa (Phẩm Phương Tiện) tôi cũng rút được nhiều kinh nghiệm và bài học rất tâm đắc mà hôm nay muốn được chia sẻ với các bạn.
Chữ phương tiện thì ai cũng hiểu rồi, nhưng trong Phẩm này có nghĩa đặc biệt và khi giảng kinh quý Thầy hay dùng chữ QUYỀN BIẾN để thay thế hai chữ phương tiện. Phương tiện là cửa ngõ để đi vào cứu cánh, phương tiện có tính cách giai đoạn.
Mở đầu phẩm Phương Tiện, đức Phật tâm sự với đại chúng rằng: Ngài rất băn khoăn sau khi thành đạo, không biết có nên đem Phật pháp ra giảng cho chúng sanh cõi Ta Bà này không? vì căn tánh chúng sanh can cường, thân tâm mê chấp, trí tuệ thấp kém, tính tình kiêu mạn, không chịu tìm hiểu để tin mà Phật pháp thì quá vi diệu, cao sâu, Ngài nghĩ: Hay mình hãy nhập Niết Bàn cho rồi.
Nhưng sau đó, Ngài nhớ lại và quán chiếu việc chư Phật trong nhiều đời đã giảng nói Phật pháp cho chúng sanh, quý Ngài dùng rất nhiều phương tiện thiện xảo để cho chúng sanh tin hiểu và áp dụng. Vì thế, đức Phật Thích Ca ngày nay cũng y theo phương pháp của chư Phật trong mười phương, mà bày ra phương tiện để giảng Pháp cho chúng sanh.
Trước hết, Ngài đã phương tiện nói là có ba Thừa (Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát)
Hàng Thanh Văn, Ngài giảng Tứ Đế Hàng Duyên Giác, Ngài giảng Duyên Khởi
Hàng Bồ Tát, Ngài giảng Lục Độ Ba La Mật
Nhưng thật ra chỉ có một thừa (Nhất Thừa) đó là Phật Thừa; Vì thế, bây giờ Ngài chỉ nói về Phật Thừa, Ngài nói rằng tất cả chúng sanh – AI R-I CŨNG SẼ THàNH phật- từ người tu hành tinh tấn, cho đến người biếng nhác, phóng túng nhưng có khởi tâm muốn làm Phật. Từ em bé nhóm cát xây thành tháp Phật, cho đến người chỉ đưa một tay ra chắp tay lạy Phật đều sẽ thành Phật trong tương lai, vì hạt giống bồ đề không bao giờ
mất. Có khác nhau chăng là vấn đề thời gian mà thôi. Lời tuyên bố này quả là khó tin, chỉ có những ai chịu khó tu tập, tìm hiểu sâu sắc về Phật Pháp mới hiểu được và chấp nhận lời Ngài.
Trước đây, Đức Phật phương tiện giảng Tam Pháp Ấn: (Vô thường – Vô Ngã – Khổ)
– Chư hành vô thường (các hành vô thường)
– Chư pháp vô ngã (các pháp vô ngã)
– Chư thọ thị khổ (các thọ là khổ – dù là lạc thọ cũng là khổ theo sau)
Bây giờ chỉ là một: Nhất Ấn, hay Thật Tướng Ấn; từ ba pháp ấn chỉ còn lại một pháp ấn, đó là khuôn mặt đích thực của thực tại.
Đối tượng của kinh này là hàng Thanh Văn – đại diện là ngài Xá Lợi Phất – Ngài là một trong 10 đại đệ tử của Đức Phật, hạnh bậc nhất của Ngài là Trí Tuệ, Ngài cũng là thầy của La Hầu La (đức Phật giao cho Ngài dạy La Hầu La). Điều đó nói lên rằng phải là hàng có trí tuệ mới có thể nghe hiểu, chấp nhận và tin những điều Như Lai nói ra.
Do vậy, mà trong hội chúng đã có năm ngàn người từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật rồi lui về, đây là những người nghiệp chướng sâu dày và tăng thượng mạn, chưa chứng đắc nhưng tự cho mình đã chứng đắc, đức Thế Tôn cho rằng đây là hạng người đại diện cho những chồi khô mộng lép (với ngôn ngữ bây giờ thì ta nói rằng: những người này chỉ cần thay đổi cách nhìn, cách suy nghĩ, thì họ cũng thành Bồ Tát, có khả năng thành Phật hết).
Đức Phật giảng rằng:
Mục đích tối hậu của sự ra đời của chư Phật là làm cho chúng sanh biết được rằng chúng sanh cũng có tri kiến Phật (khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật).
Nhưng tại sao lại đánh mất đi, tại sao sáu căn không còn thanh tịnh? – Đó là tại vì tham, sân, si, mạn, nghi, v..v.. đã che lấp. Nói cách khác, vô minh đã làm cho chúng sanh trong cõi Ta Bà này bị mê lầm.
Thầy Từ Thông, trong một buổi giảng đã nhấn mạnh: Khi mới sinh ra, sáu căn của chúng sanh cũng thanh tịnh như của chư Phật.
Hãy quan sát một em bé chưa biết đi, sáu căn của em thật là thanh tịnh: Mắt nhìn những vật quý giá của thế gian nhưng không hề ham muốn, tai nghe đủ loại tiếng nhưng không đắm, ta thử đưa cho em một hột xoàn; em có thể cầm chơi một chút rồi quăng đi không hề luyến tiếc, ai cho ăn thì ăn, uống thì uống, không ưa cũng không ghét đối với mọi người, mọi vật. Tâm em bé hồn nhiên trong sáng, sáu căn thanh tịnh, không hề bị sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (là sáu trần) làm nhiễm ô. Em bé không biết có ta có người, không phân biệt mảy may (tức là không có Ngã và Ngã Sở) đức Phật gọi hạnh này là Anh Nhi Hạnh.
Chúng sanh khi thành người lớn đã đánh mất cái hạnh này rồi, tâm bị nhiễm ô bởi tham, sân, si, mạn, nghi, phiền não v..v.. nghe Thầy giảng ngang đây tôi liền nhớ đến Tâm Bất Sinh của thiền sư Bankei (Nhật) theo ông,
thì người lớn cũng có cái Tâm Bất Sinh nghĩa là cái tâm không phân biệt, cái tâm ban sơ chưa suy nghĩ, so đo, tính toán. Chính cái tâm này sẽ tự nó an bài mọi sự việc một cách êm xuôi không cần mình phải bon chen, tranh đua hơn kém v.v..
Nếu ai an trú trong Tâm Bất Sinh đó thì đấy là Phật.
Thiền sư Bankei sống cách đây vài trăm năm mà ở thời đó ông còn bị chống đối, huống gì thời đức Phật cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm, làm sao những chúng sanh không có tuệ giác có thể tin nổi!
Thật là khó khăn cho đức Phật khi muốn truyền bá Đạo nhiệm mầu cho chúng sanh cõi Ta Bà này. Nói đến Anh Nhi Hạnh, chúng ta đã được may mắn biết một trong những người lớn mà có tâm hồn trẻ thơ, sống thanh thản, an nhiên tự tại giữa cuộc đời ồn ào phức tạp này: đó là Thiền Lão thiền sư đời Lý. Sư không màng đến việc bao nhiêu năm tháng đã trôi qua, mình là ai, mặc dù thiền phong của Sư vang dội khắp nơi và học trò của Sư lên đến hơn ngàn người. Một hôm Vua Lý Thái Tông đến viếng chùa của Sư và hỏi Ngài:
– Hòa Thượng trụ trì ở đây được bao lâu rồi ạ?
Sư đáp:
– Chỉ biết ngày tháng này (Đản tri kim nhật nguyệt)
Ai rành xuân thu trước (Thùy thức cựu xuân thu)
Vua lại hỏi:
– Hằng ngày Hoà thượng làm gì ?
– Sư đáp:
Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác ? (Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh ?) Trăng trong mây bạc hiện toàn chân ( Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân )
Vua rất kính phục và muốn thỉnh Sư về triều đình để làm cố vấn, nhưng khi sứ giả của Vua đến thì Sư đã viên tịch. Sư quả thật đã tu đến độ lục căn thanh tịnh, đã đạt được Anh Nhi Hạnh của một tâm hồn trẻ thơ, nghĩa là tâm Phật bất sinh vậy .
Qua phẩm Phương Tiện này tôi đã học được và đem áp dụng vào cuộc sống, xin ghi ra đây những bài học ấy:
– Trước hết là bài học “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh” Tôi cũng là một chúng sanh, dù tính tình, căn cơ, trình độ v.v…như thế nào, tôi cũng có Phật tính. Tôi phải siêng năng tưới tẩm mầm giống Phật trong tôi để một ngày kia có thể làm hiển lộ được Phật tính, để có khả năng cứu độ mọi loài chúng sanh. Muốn như vậy, ngay từ bây giờ phải bắt tay vào tu tập đạo giải thoát qua chính những việc làm hằng ngày của mình và bằng khả năng dù nhỏ của mình, chuyển đến mọi người thông điệp quý báu này của đức Thế Tôn để mọi người đều có niềm tin và niềm hy vọng “mình sẽ là một vị Phật tương lai” dù tương lai đây có thể là vô lượng kiếp nữa.
– Ngay cả đức Phật cũng chùn bước về việc đem Phật Pháp ra giảng dạy, vì thấy căn cơ của chúng sanh trong đời mạt pháp và ở cõi Ta Bà này khó có thể lãnh hội. Vậy thì tôi (chúng ta) cũng không nản lòng khi thấy trước mắt bao nhiêu cảnh đạo đức suy đồi, thế giới đang lâm nguy vì chiến tranh, thù hận. Mà trái lại, bằng hết sức mình đem Phật pháp làm phương thuốc cứu khổ cho chúng sanh, tùy theo hoàn cảnh riêng của mình mà hoàn thành tâm nguyện này. Nếu mình không làm được một vì sao trên bầu trời, thì hãy làm một ngọn nến trong nhà vậy. Mình phải thường xuyên học kinh, áp dụng kinh vào cuộc sống trước mặt.
Tất cả các môn học: hoạt động thanh niên, trò chơi, văn nghệ, báo chí, trại mạc v..v.. trong các đoàn thể thanh niên tin Phật như: Thanh Niên Phật Tử, Gia Đình Phật Tử, Hướng Đạo Phật Tử, Sinh Viên Phật Tử, Học Sinh Phật Tử đều là những Phương tiện nhằm mục đích giới thiệu Phật pháp với các em, truyền bá giáo lý đến các em.
Vì vậy, nếu sa đà theo phương tiện mà quên mục đích thì đó là khuyết điểm của người Huynh trưởng trong các tổ chức giáo dục tuổi trẻ này.
Cũng vậy, báo chí nếu không đem lại sự hòa ái tin yêu giữa những người Phật tử, giữa người với người, không đem niềm vui đến cho độc giả mà chỉ đem phiền não, thị phi thì tờ báo đó mất tác dụng truyền bá Phật Pháp rồi.
Về bản thân, nếu chúng ta không phân biệt rõ phương tiện và cứu cánh trong các hành động của thân, miệng, ý trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có thể bị sa vào lầm lỗi. Ví dụ có người bảo rằng uống rượu mà không say sưa là được, uống rượu, khiêu vũ v..v. là để xã giao, thù tiếp trong công việc làm ăn của xã hội ngày nay không tránh được. Điều này có thể đúng, nhưng chúng ta phải luôn tỉnh thức để biết lúc nào là cần thiết sử dụng nó như một phương tiện, và lúc nào ta đã sa đà vào sự phóng dật đam mê không thể rút chân ra được. Điều này chỉ có ta biết ta mà thôi. Xin tất cả chúng ta hết sức cẩn trọng!
Trong phẩm này có nhiều câu kinh, câu kệ thật là hay, không thể không nhớ hoài được, và nhờ vậy chúng ta dễ thuộc, dễ áp dụng ví dụ như:
Chư pháp tùng bổn lai (các pháp xưa nay)
Thường tự tịch diệt tướng ( thường tự vắng lặng)
Câu này nói lên cái ý nghĩa thật độc đáo: Đó là mỗi lá cây ngọn cỏ, đều dạy cho ta về vô thường vô ngã và tánh không của vạn pháp. Chúng ta không chỉ đến chùa mới nghe được Phật pháp vi diệu mà từng chiếc lá, cành hoa v..v.. đều giảng nói Phật Pháp nếu chúng ta biết ngắm nhìn và biết lắng nghe.
Thật vậy, nhìn một cành hoa ta thấy rõ trùng trùng duyên khởi, cái hoa là tổng hợp của nước, ánh sáng, đất, gió, không khí, mặt trời v..v.. đó là chưa kể công người trồng,tưới, công của mưa gió thuận hoà. Đây cũng là một bài học về cách nhìn ngắm cây cỏ trong vườn, trong thiên nhiên.
Thầy Nhất Hạnh thường khen bài thơ của Quách Thoại vịnh bông hoa Thực Dược như sau:
Đứng yên ngoài hàng dậu,
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Lặng nhìn em kinh ngạc
Và thoảng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Ta sụp lạy cúi đầu
Thầy nói người thi sĩ trẻ này đã nắm bắt được thực tại nhiệm mầu.
Thật vậy, chính bây giờ và ở đây chúng ta có hạnh phúc, chúng ta có an lạc, chúng ta có cái đẹp tuyệt đối chứ không cần tìm ở đâu xa, nếu chúng ta biết nhìn, chúng ta sẽ thấy. Biết lắng tai thì sẽ nghe những âm thanh vi diệu từ thiên nhiên quanh ta trong một buổi bình mình, một buổi hoàng hôn hay ngay cả trong cái tĩnh mịch của một buổi trưa hè.
Do đó, trong khi đi dạo ta có thể thực hành thiền, giữ tâm yên, lời yên, chúng ta học tập được rất nhiều điều từ thiên nhiên mặc dù thiên nhiên không bao giờ nói gì cả. Điều này còn có thể chữa lành hay bồi dưỡng cái tâm quá mệt mỏi của chúng ta nữa.
Hai câu này, không chỉ chúng ta thấy hay mà người xưa cũng thấy hay nữa. Chẳng thế, mà một vị Thiền
sư đã dùng để mở đầu cho một bài thơ của mình:
Chư pháp tùng bổn lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai
(Xuân đến trăm hoa nở )
Hoàng Oanh đề liễu thượng
(Oanh vàng ca liễu thắm)
Vị Thiền sư này cũng thưởng thức thiên nhiên với tâm thanh tịnh. Thực tại rất đơn giản ở trước mặt như hoa xuân đua nở và chim chóc ca hót, tâm của thiền gia an lạc, thanh tịnh, không vướng mảy may bụi phiền não .
Ngoài ra trong khi học phẩm này tôi cũng được nhắc nhở về 3 thứ ngoại đạo
1. Ngoại đạo thật
2. Ngoại đạo mạo danh đạo Phật: Tu theo ngoại đạo nhưng dán nhãn hiệu đạo Phật.
3. Học Phật Pháp thành ngoại đạo: Hiểu lầm Phật pháp, ý của mình mà nói là ý của Phật, của Chư Tổ. Như vậy tưởng là truyền bá đạo Phật, kỳ thực là truyền bá ý của mình. Họ chấp lời nói của Phật, của Tổ cho là thật, không biết đó chỉ là phương tiện. Đức Phật gọi hạng thứ ba này là sư tử trùng, vì chính họ sẽ tiêu diệt Phật pháp.
Bài học này giúp tôi luôn luôn tự cảnh giác mình: phải sống theo giáo pháp, đừng bẻ cong giáo pháp theo tham vọng, chấp thủ của mình. Trong ý nghĩa này, hy vọng tất cả mọi người hãy chỉ dạy cho tôi những tư tưởng lệch lạc mà do vô minh và trình độ yếu kém (chứ không cố ý) tôi đã nói hay viết ra.
Một bài học khác nữa mà tôi đã học qua phẩm này là gần gũi và cúng dường vô số Chư Phật. Thế nào gọi là được gần gũi và cúng dường vô số Chư Phật?
Đây cũng là ngôn ngữ biểu tượng của kinh Pháp Hoa. Vì thọ lượng của chư Phật là vô cùng vô tận, chúng ta làm sao gần gũi và cúng dường vô số chư Phật trong một kiếp phù du ở cõi Ta Bà này được? Nhưng nếu ta an trú trong tâm Phật bất sinh, xa lìa ngã chấp, ngã sở (chấp có TA và CỦA TA) luôn tỉnh thức, tránh tất cả các điều ác, làm tất cả điều lành, giữ tâm ý trong sạch, không truy tìm quá khứ, không mơ ước tương lai, luôn an trú trong hiện tại, hằng ngày luôn nhớ nghĩ điều thiện, giữ gìn chánh niệm, không khởi tà niệm thì đó là ta đã gần gũi và cúng dường vô số chư Phật vậy.
Nói tóm lại, gần gũi và cúng dường chư Phật có nghĩa là gần gũi với Phật tánh thanh tịnh của chính mình. Thực tập bài học này, tôi luôn cố gắng giữ gìn chánh niệm trong từng cử chỉ nhỏ nhặt thường ngày trong ăn uống, nói năng, nằm, ngồi, đi đứng, ngủ, nghỉ và cả trong từng ý nghĩ dấy khởi lên trong tâm mình để dừng lại kịp thời những ác nghiệp của Thân, Khẩu, Ý.
Một bài học quý nữa mà phẩm Phương Tiện đã cho tôi là về thật tướng của các pháp. Chúng ta thường gặp phiền não khổ đau vì chúng ta méo mó trong cách nhìn, cách nghe v..v. Do đó, chúng ta không thấy được thật tướng của các pháp.
Nếu chúng ta nhìn một vật, một người với tâm Phật bất sinh của mình, nhìn mà không phân biệt lớn, nhỏ, cao thấp, xấu đẹp thì không bao giờ chúng ta gặp phiền não, đau khổ. Nếu chúng ta biết nghe với tâm bình đẳng, không để cho cái Ngã của ta vướng vào, sao cho cái nghe cứ vẫn là cái nghe thuần túy, cái thấy chỉ là cái thấy thuần túy …thì ta sẽ thấy vạn pháp vốn bình đẳng, và thanh tịnh. Ta hiểu được ý nghĩa của không dơ, không sạch, không thêm không bớt, không thường, không đoạn, không sanh không diệt như thế nào.
Đức Phật nói đó là nhìn sự vật theo cái nhìn của chư Phật, theo thập như thị: Tướng, Tánh, Thể, Lực, Tác, Nhân, Duyên, Quả, Báo, Bổn mạt cứu cánh (đúc kết 9 như thị trên).
Còn tâm chúng ta thì luôn phân biệt, phê phán. Ví dụ núi thì cao, đồi thì thấp, sông thì sâu, hồ thì cạn v..v.. nhìn người thì phân biệt người nước này nước nọ, châu này châu kia, màu da vàng, trắng, đỏ, đen. Người này dễ thương, người kia dễ ghét, người này đẹp người kia xấu. Từ đó, phiền não khổ đau tranh chấp sẽ kéo theo sau.
Thật vậy, nhìn mọi vật với cái thấy của tâm phân biệt nhỏ hẹp của mình thì thật là hạn chế; Nếu chúng ta biết quay về với tự tâm thanh tịnh, nhìn mọi vật theo tướng của nó, tánh của nó, bản thể của nó, lực dụng của nó v..v.. thì ta thấy được tính bình đẳng không hai của mọi sự vật trên đời, không bị hạn chế bởi tâm địa hẹp hòi, so sánh, đo lường, tính toán, phân biệt của chúng ta nữa, mà trái lại thấy được tính cách phong phú, đa dạng và vi diệu của vạn pháp vậy.
Thực tập bài học này, tôi thấy cuộc đời đẹp hơn và mọi người quanh tôi ai cũng dễ thương tử tế, tôi còn thực tập được mở rộng lòng từ bi nữa. Để kết thúc, xin gởi đến các bạn bài kệ mà tôi nhớ đến khi học xong phẩm Phương Tiện này:
Các pháp xưa nay thường vắng lặng Tâm sanh niệm khởi cảnh liền sanh Nghe chuông tỉnh thức lìa cơn mộng Thể nhập chơn tâm diệu đức hằng.