
Nữ sĩ có tên là Trần Thị Gia Minh. Bà là ái nữ của chí sĩ Á Nam Trần Tuấn Khải. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Khuê dòng dõi khoa bảng.
Đặt tên con, mẹ bảo rằng Nhật Nguyệt
Chắp thành Minh ánh sáng đẹp cho nhà
Giờ con đó – cõi đêm mờ trùng điệp
Gọi tên mình rồi xấu hổ không thưa.
(Tuệ Mai – Trên nhánh sông mưa 18)
Quê nội của Tuệ Mai là miền non Côi sông Vị. Quê ngoại là Sơn Tây. Nhưng Tuệ Mai lại được sinh ra và lớn lên tại Hà Nội để rồi duyên nợ khiến cô chọn Sài Gòn làm nơi neo đậu cho sự nghiệp.
Sự nghiệp:
Mẹ mất sớm khi cô lên 9 tuổi, nên Gia Minh đến với thơ rất sớm, cô thuộc nhiều thơ của cha mình nhất là ca dao có nội dung yêu giống nòi, yêu tổ quốc. Năm 12 tuổi cô đã có thơ đăng báo ở Hà Nội nhưng mãi đến năm 1962 mới xuất bản tập thơ đầu tiên với tựa đề Thơ Tuệ Mai.
Bút danh lúc bấy giờ là Kiều Oanh, Kiều Minh, sau năm 1940 bà lấy tên là Trần Thị Tuệ Mai và thường được gọi tắt là Tuệ Mai.
Tuệ Mai thường xuyên cộng tác với các tạp chí Phổ Thông, Bách Khoa, Liên Hoa, Giác Ngộ… thường nói chuyện chủ đề thi ca tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn. Vào thập niên 60 của thế kỷ XX khách yêu thơ, giới làm văn học, và báo chí tại Sài gòn đã tôn vinh bà bằng cụm từ “Nữ hoàng thơ ca trẻ”. Bà được Giải thưởng Văn chương toàn Quốc năm 1966.
Theo nhà thơ Ninh Giang Thu Cúc: “Thơ Tuệ Mai trong trẻo mượt mà như nắng lụa đầu xuân, khi hồn nhiên như cô bé nũng nịu đòi quà, khi trầm thống như đại ngàn hùng vỹ, khi sâu lắng cho một niềm đau thân phận riêng chung… khi tự hào làm con dân của một đất nước có bốn nghìn năm văn hiến”.
Thơ phổ nhạc.
Bài thơ “Vu Quy” được Duy Quang phổ nhạc (1974) và July Quang hát rất tuyệt vời. Nhiều người đều lầm tưởng thơ của Duy Quang. Nhưng chính là thơ của Tuệ Mai
Một lần khép nép
Chào biệt mẹ cha
Phận con là gái
Như hạt mưa sa
Một lần e lệ
Bước lên xe hoa
Khép trang nhật ký
Thôi giòng viễn mơ
Thôi chăn gối lẻ
Gửi lại giường xưa
Ủ giùm cho nhé
Hương đào ngây thơ
Thôi bàn học cũ
Sách vở từng năm
Nhớ người tóc xõa
Ôn bài dưới trăng
Gửi khu vườn nhỏ
Ngày tháng nô đùa
Chân chim khuyên nhẩy
Dưới tàng lá thưa.
Gửi khu vườn nhỏ
Những dáng thường qua
Dấu chân lưu luyến
Giòng mắt mong chờ
Gửi khu vườn nhỏ
Những thoáng say mơ
Của mùa e ấp
Sen ngó đào tơ.
Long lanh ngấn lệ
Điểm má xuân thì
Hương trinh rờn rợn
Tà áo vu quy
Một lần khép nép
Chào biệt mẹ cha
Một lần e lệ
Bước lên xe hoa
Là thôi là tắt
Tiếng hát ngây thơ
Từ lòng sen ngó
Từ nụ đào tơ
Gót hài hôn lễ
Đưa bước xa nhà
Theo câu phận gái
Như hạt mưa sa…
(Trích trong Bay nghiêng vòng đời 13)
Trong sinh hoạt thi ca 20 năm của dòng văn học miền Nam, nhà thơ Tuệ Mai, theo tôi là một trường hợp khá đặc biệt. Tên thật Trần Thị Gia Minh, bà sinh năm 1928 tại Hà Nội, trong một gia đình thế giá. Thân phụ bà là nhà thơ nổi tiếng cụ Á Nam – Trần Tuấn Khải. Tuy thân mẫu mất sớm, nhưng bà vẫn được dưỡng dục một cách chu đáo bởi người cha thuộc thế hệ kẻ sĩ thời Nho giáo còn ảnh hưởng khá nặng.
Theo lời bạn tôi, Đỗ Hùng (hiện cư ngụ tại vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn) thì ngay từ đầu thập niên 1950s, nhà thơ Tuệ Mai đã là trưởng đoàn thanh nữ của Gia Đình Phật Tử Minh Tâm – Trụ sở sinh hoạt là sân chùa Quán Sứ ở đường Quán Sứ, Hà Nội. Thời gian này cũng là thời gian nhà văn, luật sư Trần Thanh Hiệp là huynh trưởng thiếu đoàn Gia Đình Phật Tử cũng thuộc chùa Quán Sứ – – Trong khi bạn tôi, Đỗ Hùng, thời đó mới chỉ là đoàn viên của Thiếu đoàn Gia Đình Phật Tử Đồng Niên. Vẫn theo lời kể của Đỗ Hùng, thì chùa Quán Sứ cũng như Gia đình Phật Tử Quán Sứ do hòa thượng Thích Tố Liên, một nhân vật đạo cao, đức trọng thuở đó, trụ trì, hướng dẫn.
Được khuôn đúc trong nề nếp đạo đức, lại sống khép kín, gần như xa lánh mọi sinh hoạt náo động, ồn ào của xã hội, nên cõi giới thơ Tuệ Mai gần như vắng lặng những lênh đênh, khấp khểnh đời thường. Ở phương diện giao tiếp bạn văn, bà cũng giới hạn vào một số rất nhỏ những người bà quen biết, tin cậy… Một trong những người bạn gái được coi là thân thiết hơn chị em ruột, trong nhiều chục năm của Tuệ Mai là nhà văn Nguyễn Thị Vinh . Đó là người bạn, mà bà có thể tâm sự, chia sẻ với nhau cả những chuyện thầm kín nhất và, ngược lại. Nhưng, Tuệ Mai hơn một lần cho biết, không vì thế mà bà ảnh hưởng quan niệm văn chương, cách sống của bạn….
Lược kê những dữ kiện này, tôi chỉ muốn nói, mặc dù làm thơ rất sớm ngay tự những năm cuối thập niên 1930s, đầu thập niên 1940s, nhưng cho tới khi Tuệ Mai xuất bản thi phẩm “Không bờ bến”, Saigon, 1964; được trao giải văn chương toàn quốc 1966 thì, khuynh hướng thơ của bà dường không thay đổi bao nhiêu. Thơ bà vẫn không ra khỏi tinh thần yêu nước nhẹ nhàng, nhắm tới tâm tình (mang nhiều tính giáo dục) giới trẻ, kiểu “gia huấn ca”. Thản hoặc bà có những bài thơ nói về tình yêu, chiến tranh hay những tân khổ của kiếp người thì, chúng cũng chỉ thoảng, nhẹ.
Đó là giai đoạn thứ nhất của hành trình thi ca Tuệ Mai, hai giai đoạn.
Nói cách khác, đấy là một dòng thơ thiếu cá tính. Phải chăng vì thế, thơ của bà đã không được đám đông đón nhận như một vài nhà thơ nữ khác – – Mặc dù tính tới tháng 4-1975, hàng ngũ những nhà thơ nữ của miền Nam, hoạt động đều đặn, vốn không nhiều lắm.
Tôi trộm nghĩ, có thể cũng vì vậy mà nhà phê bình văn học Cao Thế Dung, trong bài viết tựa đề “Nữ thi sĩ Tuệ Mai” trích từ tác phẩm “Văn học hiện đại / Thi ca & Thi Nhân / Cao Thế Dung”, do nhà văn Thế Phong đăng tải trên trang mạng Virgil Gheorghiu, (3) có đoạn mở đầu như sau:
“Cách đây 7 năm, khi nhận định về một số thi nhân Việt Nam Tự Do; chúng tôi không có một ý nghĩ tốt nào về Thơ Tuệ Mai – vì thơ Tuệ Mai, xem như quá xa cách với cảm quan và nhãn giới của chúng tôi lúc bấy giờ. Chúng tôi chỉ có một thành kiến duy nhất: Tuệ Mai chưa thể tiêu biểu cho thi ca hôm nay- nghĩa là tiếng nói trung thực của hiện đại. Từ cái thành kiến đáng ghét như thế, trước mắt nhin của người viết, Tuệ Mai chỉ như một thứ trang sức cho xôm trò, và không thể đóng góp vào sự sống hôm nay, cùng với tiếng nói và thể chất hôm nay qua Thi Ca… Một tiêu biểu sung mãn. Vì vậy, chúng tôi không đặt để Tuệ Mai trên bất cứ một nấc thang giá trị nào…”
Tuy nhiên, ngay sau đó, họ Cao viết:
“Bẩy năm đi qua với bao nhiêu thay đổi trên Quê hương và Lịch sử, lẽ tự nhiên tâm thể cùng với cảm quan của một người – và có thể rất nhiều người – cũng đổi thay và đổi thay một cách nghiêm trọng. Từ sự thay đổi nghiêm trọng kia trong cảm quan và tâm thể, cũng như cân não – đã bắt buộc chúng ta phải thực hiện một cuộc trở về để giám định lại tất cả quá khứ – nếu có thể, hay một phân bộ – và chúng ta sẽ mang nhiều hối tiếc. Có những hối tiếc lý thú mà chúng ta cần phải nâng niu giữ lại, những hối tiếc của nghệ thuật trên một tình tự thăng hoa và phủ nhận. Có những hối tiếc chúng ta cần phải lên tiếng trình bày như là một lời ‘nói lại’… ‘Chúng tôi muốn nói đến niềm hối tiếc phát xuất từ sự thiên lệch và cố chấp trong những nhận định sai lầm về nghệ thuật… Niềm hối tiếc cứ thế mà lớn dần khi chúng tôi đọc lại thơ Tuệ Mai:
‘Vòng khăn tang lớn dần quấn hãm đời nàng
Giải khăn tang dài, dài hơn con đường tự khởi điểm thôi nôi
Tới khúc quanh năm tháng
Những đám tang
Ôi những đám tang huyệt mùa đông ngăn ngắt
Bia mộ dựng trong nàng
Mỗi một bia một ngọn lửa tàn
Bên một con sông cạn
Như một tắt âm thanh…’
(trích Trước sau – Thơ Tuệ Mai)”
Chúng tôi không rõ ngày mất của Tuệ Mai, về năm mất có chỗ nói năm 82, có chỗ nói năm 1983 .
Du Tử Lê